Bạo lực trong xã hội và chính trị, dù dưới hình thức chiến tranh, khủng bố, độc tài, áp bức, tiếm quyền, hay diệt chủng, cũng đều được công nhận một cách phổ quát là một vấn đề trầm trọng.
Tất cả mọi đề nghị nhằm giải quyết vấn đề bạo lực, hay những thể hiện nào đó của bạo lực, đã không thành công. Có lẽ vấn đề vẫn chưa được giải quyết vì những đề nghị này đã đặt nền tảng trên những hiểu biết không đầy đủ về bản chất của bạo lực. Không hiểu được vấn đề, thì khó, nếu không phải là không thể, giải quyết được vấn đề.
Mục tiêu của tiểu luận này là khai phá ra một góc nhìn khác về bản chất của vấn đề bạo lực đang lan tràn trong khắp xã hội và trong chính trị, một góc nhìn gợi ý cho ta cần phải làm gì để giải quyết vấn đề.1
Chúng ta cần phân tích những điều kiện mà theo đó có thể giảm thiểu thật nhiều sự trông cậy vào quân sự hay những phương tiện đấu tranh bạo động khác. Chúng ta phải xét định tại sao bạo lực lại được xem là cần thiết cho những mục tiêu tốt cũng như những mục tiêu xấu một cách phổ quát như thế, và làm thế nào để đạt được một sự thay đổi căn bản tránh xa hội chứng này.
Góc nhìn trong tiểu luận này thật đơn giản, nhưng có lẽ là nền tảng cho việc giải quyết vấn đề bạo động trong những xung đột chính trị và quốc tế.
Điều quan trọng là phải công nhận rằng xung đột trong xã hội và chính trị là không thể tránh được, và trong nhiều trường hợp, lại còn đáng được mong đợi nữa. Một vài cuộc xung đột có thể giải quyết được bằng những phương pháp nhẹ nhàng, như là thương thảo, đối thoại, và hoà giải — những phương pháp liên quan đến thoả hiệp. Những phương pháp này chỉ khả thi khi những vấn đề nêu lên không phải là nền tảng. Ngay cả trong trường hợp này, giải quyết bằng thương thảo thường chịu ảnh hưởng bởi những khả năng quyền lực tương đối của các đối thủ hơn là bởi sự thẩm định chung có lý luận về việc công lý thuộc về phe nào.
Tuy nhiên, trong nhiều cuộc xung đột vấn đề tranh chấp căn bản đang, hoặc được tin là đang, bị đe doạ. Đây là những cuộc “xung đột nghiêm trọng.” Những cuộc xung đột này được xem là không thích hợp cho bất cứ giải pháp nào liên quan đến thoả hiệp.
Trong những cuộc xung đội nghiêm trọng ít nhất là một phe cho là xúc tiến một cuộc đấu tranh chống lại đối phương thù địch là cần thiết và là điều tốt. Những cuộc đấu tranh nghiêm trọng thường được tin là được xúc tiến để thúc đẩy sự tiến bộ của tự do, công lý, tôn giáo, hay là nền văn minh của nhân loại, hay là để kháng cự lại và đánh gục bạo lực thù địch. Bạo lực thù địch có thể được ứng dụng để áp đặt áp bức, bất công, hay độc tài. Bạo lực thù địch cũng có thể được ứng dụng để tấn công những nguyên tắc đạo đức hay tôn giáo hoặc nhân phẩm, hay ngay cả đe doạ sự sinh tồn của cả một dân tộc.
Trong những cuộc xung đột nghiêm trọng ít nhất là có một phe xem sự khuất phục, sự đầu hàng, hay sự thất bại là một thảm hại cho những nguyên tắc, cho những niềm tin, cho toàn thể xã hội của mình, và đôi khi cho chính sự sống của chính mình. Trong những hoàn cảnh như thế, người ta tin là cần phải xúc tiến cuộc đấu tranh càng mạnh mẽ được chừng nào hay chừng đó.
Nhu cầu cần có một phương tiện để xúc tiến cuộc đấu tranh
Chiến tranh và các hình thức bạo lực khác đã từng được ứng dụng cho những mục đích khác nhau, nhưng trong những cuộc đấu tranh nghiêm trọng, bạo lực đã được sử dụng như là phương tiện để xúc tiến đấu tranh nhằm bảo vệ và đề cao những lý tưởng được tin là tốt đẹp và thanh cao. Bạo lực đã từng được tin là giải pháp cần thiết thay thế cho sự khuất phục thụ động trước cái ác lớn lao.
Trong hầu hết các hệ thống chính trị, chiến tranh và các bạo lực khác được xem là “chế tài tối hậu.” Nghĩa là, các hình thái của bạo lực được tin là phương tiện cuối cùng, là hoạt động hùng mạnh nhất có thể áp dụng được, là phương tiện cuối cùng để tạo áp lực, để trừng phạt, hoặc để áp dụng sức mạnh khi mà những phương tiện được cho là mềm mỏng bị xem là đã thất bại, hay là được quyết định là sẽ thất bại. Người ta tin là lúc bấy giờ bạo lực được sử dụng để thúc đẩy và bảo vệ tất cả những gì được xem là tốt đẹp và đáng giá.
Trừ phi vai trò của bạo lực được thấu hiểu, người ta sẽ không thể giảm thiểu được nhiều sự trông cậy vào chiến tranh và các hình thức bạo lực khác trong những cuộc xung đột nghiêm trọng.
Trong những cuộc xung đột về những vấn đề căn bản nghiêm trọng mà suy nghĩ và hành động như thể là thương thảo hay đối thoại là một giải pháp thoả đáng thì thật là ngây thơ. Những đối thủ thù địch thường hết sức hiếm khi bỏ rơi những mục đích hay những phương tiện của họ mà không chiến đấu. Nhắm đến một giải pháp “ai cũng thắng cả” thì thật là phi lý. Những nhà độc tài tàn bạo và những kẻ phạm tội diệt chủng không đáng có được một thắng lợi nào cả.
Chúng ta có hằng chục năm bằng chứng cho thấy là bạo lực trong việc điều hành những cuộc xung đột không bị loại bỏ chỉ vì những phản đối chống lại bạo lực như thế. Trong những cuộc xung đột nghiêm trọng, đa số người ta sẽ không từ bỏ chiến tranh và các hình thức bạo lực khác chỉ vì họ tin, hay là được người ta nói, là bạo lực như thế vi phạm đến những nguyên tắc đạo đức hay tôn giáo. Tuân theo những mong đợi ngược lại là không thực tế.
Đã gần bốn mươi năm trôi qua từ khi bác sỹ về tâm thần Jerome D. Frank nhắc nhở chúng ta là đối với hầu hết mọi người, hoà bình không phải là giá trị lớn lao nhất.2
Người ta, các phe nhóm và các chính quyền sẽ không từ bỏ bạo lực khi mà từ bỏ bạo lực được xem là có nghĩa trở nên không có sức mạnh và bất lực trong một cuộc đấu tranh mà trong đó những niềm tin cơ bản và bản chất xã hội của mình đang bị, hay được tin là đang bị, tấn công.
Trong những cuộc xung đột nghiêm trọng, muốn để cho chiến tranh và các hình thức bạo lực khác không bị sử dụng như là phương tiện hành động tối hậu nhằm thúc đẩy hay bảo vệ những nguyên tắc, những lý tưởng, xã hội, hay sự sinh tồn, thì cần phải có một số phương tiện hành động mạnh mẽ khác. Cần phải có một phương tiện thay thế để điều hành công cuộc đấu tranh một cách mạnh mẽ và có cơ hội thành công tương đương hay lớn hơn giải pháp bạo lực.
Vì nhu cầu cần thiết, một giải pháp thay thế có chức năng như thế phải có khả năng giải quyết thoả đáng những “trường hợp khó khăn” mà trong quá khứ người ta tin là đòi hỏi cần phải dùng bạo lực. Những “trường hợp khó khăn” này bao gồm những xung đột chống lại những nền độc tài, ngoại bang xâm lăng và chiếm đóng, tiếm quyền tại quốc nội, áp bức, mưu đồ diệt chủng, những vụ trục xuất ra khỏi nước và tàn sát tập thể.
Có một đầu mối hết sức quan trọng cho thấy là một giải pháp thay thế như thế có thể có được. Đó là sự kiện sức mạnh của ngay cả những nền độc tài cũng phải lệ thuộc vào những nguồn sức mạnh trong xã hội. Những nguồn sức mạnh này lại lệ thuộc vào sự hợp tác của số lớn các cơ chế và của dân chúng — một sự hợp tác có thể được tiếp tục hay không, như chúng ta sẽ xem xét sau đây một cách chi tiết hơn.
Có một kỹ thuật đấu tranh khác
Một sự thay thế cho đấu tranh bằng bạo lực như thế là một giải pháp thực tiễn. Người ta thường quên rằng chiến tranh và các hình thức bạo lực khác không phải là phổ quát trong việc điều hành những cuộc xung đột nghiêm trọng. Trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau, xuyên qua nhiều thế kỷ và biên giới văn hoá, một kỹ thuật đấu tranh khác đã có lúc đã được ứng dụng. Kỹ thuật khác này đã không đặt cơ sở trên việc chìa má bên kia, mà trên khả năng kiên trì và khả năng đối kháng lại đối phương hùng mạnh, một cách mãnh liệt.
Dọc dài lịch sử loài người, trong một số lớn những cuộc xung đột, một phe đã từng tranh đấu – không phải bằng bạo lực mà — bằng những phương pháp tâm lý, xã hội, kinh tế, chính trị, hay bằng một sự hỗn hợp của những phương pháp này. Loại đấu tranh này đã từng được xúc tiến, không những chỉ khi nào những vấn đề tranh chấp tương đối giới hạn và đối phương tương đối dễ chịu. Nhiều lần hình thái đấu tranh thay thế này đã từng được ứng dụng khi những vấn đề tranh chấp căn bản đã trở nên nghiêm trọng và khi đối phương tàn ác đã sẵn sàng và có khả năng áp dụng đàn áp cực đoan. Sự đàn áp này đã từng bao gồm các vụ hành quyết, đánh đập, bắt bớ, tù tội, và tàn sát tập thể. Dù bị đàn áp như thế, nhưng khi những người đối kháng kiên quyết đấu tranh bằng vũ khí duy nhất bất bạo động mà họ đã chọn, thì có lúc họ đã chiến thắng.
Kỹ thuật này được gọi là hành động bất bạo động hay là đấu tranh bất bạo động. Đây là loại “chế tài tối hậu” khác. Trong những cuộc xung đột nghiêm trọng, kỹ thuật này có tiềm năng thay thế cho chiến tranh và những hình thái bạo lực khác.
Các điển về đấu tranh bất bạo động
Đấu tranh bất bạo động đã từng xảy ra trong những nền văn hoá, những giai đoạn lịch sử, và những điều kiện chính trị hết sức khác biệt. Nó đã từng xảy ra tại “phương Tây” và tại “phương Đông.” Đấu tranh bất bạo động đã xảy ra tại những quốc gia đã được kỹ nghệ hoá và những quốc gia chưa được kỹ nghệ hoá. Nó đã được thực hành trong những nền dân chủ hiến định và chống lại những đế quốc, những chiếm đóng của ngoại bang, và những hệ thống độc tài. Đấu tranh bất bạo động đã từng được xúc tiến nhân danh hằng hà sa số lý do và phe nhóm, ngay cả cho những mục tiêu mà nhiều người bác bỏ. Nó đã từng được sử dụng để ngăn chặn, cũng như để xiển dương đổi thay. Việc sử dụng đấu tranh bất bạo động đôi khi đã được hỗn hợp với bạo lực có giới hạn.
Những vấn đề tranh chấp nêu lên thường khác nhau. Chúng thường bao gồm những vấn đề xã hội, kinh tế, sắc tộc, tôn giáo, quốc gia, nhân đạo, và chính trị, và từ những vấn đề tầm thường cho đến những vấn đề nền tảng.
Dù các sử gia thường không chú ý đến loại đấu tranh này, loại đấu tranh này rõ ràng là một hiện tượng hết sức cổ. Hầu hết lịch sử của loại kỹ thuật này hiển nhiên đã bị mất mát, và hầu hết những gì còn sót lại thì phần lớn đã bị lơ là.
Nhiều điển cố về đấu tranh bất bạo động đã có ít hay không có liên quan gì đến các chính quyền. Các điển bao gồm những xung đột về quản lý lao động và những nỗ lực áp đặt hoặc kháng cự lại các áp lực tạo tuân phục xã hội. Đấu tranh bất bạo động cũng còn được sử dụng trong những cuộc xung đột về sắc tộc và tôn giáo và trong nhiều hoàn cảnh khác, như trong những cuộc tranh chấp giữa sinh viên và ban quản trị đại học. Những cuộc xung đột quan trọng giữa thường dân và các chính quyền mà trong đó một phe đã sử dụng hành động bất bạo động cũng đã từng xảy ra một cách hết sức phổ biến. Những thí dụ sau đây thường thuộc loại này.
Từ thế kỷ thứ mười tám đến xuyên suốt thế kỷ thứ hai mươi, kỹ thuật đấu tranh bất bạo động đã từng được sử dụng rộng rãi trong những cuộc xung đột hết sức khác biệt: những cuộc nổi loạn của dân thuộc địa, những cuộc xung đột chính trị và kinh tế quốc tế, những xung đột tôn giáo, và đối kháng chống nô lệ. Kỹ thuật này đã từng có mục đích bảo đảm quyền được tổ chức của công nhân, các quyền của phụ nữ, quyền phổ thông đầu phiếu, quyền bỏ phiếu của phụ nữ. Loại đấu tranh này đã từng được sử dụng để giành độc lập quốc gia, để tạo những thắng lợi về kinh tế, để chống lại nạn diệt chủng, để đánh đổ độc tài, để tranh thủ quyền công dân, để chấm dứt phân biệt đối xử, và để kháng cự ngoại bang chiếm đóng và những cuộc đảo chánh.
Những trường hợp kỹ thuật này được sử dụng vào đầu thế kỷ thứ hai mươi bao gồm những yếu tố chính yếu của cuộc Cách Mạng Nga năm 1905. Tại nhiều quốc gia, các công đoàn đương phát triển đã sử dụng những vụ đình công và tẩy chay kinh tế một cách rất phổ biến. Những vụ người Trung Hoa tẩy chay các sản phẩm Nhật Bản đã xảy ra vào những năm 1908, 1915, và 1919. Người Đức đã sử dụng đấu tranh bất bạo động để chống lại Đảo Chánh Kapp vào năm 1920 và chống lại việc Pháp và Bỉ chiếm đóng vùng Ruhr năm 1923. Trong những thập niên 1920 và 1930, những người quốc gia Ấn Độ đã dùng hành động bất bạo động trong những cuộc đấu tranh của họ chống lại nền cai trị của người Anh, dưới sự lãnh đạo của Mohandas K. Gandhi.
Từ 1940 đến 1945 tại nhiều quốc gia Âu châu, đặc biệt là tại Na Uy, Đan Mạch, và Phần Lan, người ta đã sử dụng đấu tranh bất bạo động để kháng cự lại sự chiếm đóng và nền cai trị của người Đức. Hành động bất bạo động đã được sử dụng để cứu người Do Thái khỏi bị Tàn Sát ở Berlin, Bulgaria, Đan Mạch, và những nơi khác. Những nhà độc tài quân phiệt ở El Salvador và Guatemala đã bị lật đổ trong những cuộc đấu tranh bất bạo động ngắn ngủi vào mùa xuân năm 1944. Những cuộc đấu tranh cho dân quyền của Mỹ chống lại phân biệt chủng tộc, đặc biệt là vào những thập niên 1950 và 1960, đã thay đổi luật lệ và các chánh sách đã được thiết lập lâu đời ở miền Nam Hoa Kỳ. Vào tháng Tư năm 1961 sự bất hợp tác của các binh lính quân dịch Pháp tại thuộc địa Algeria của Pháp hỗn hợp cùng với những cuộc biểu tình của dân chúng tại Pháp và sự thách thức của chính phủ Debré-de Gaule đã đánh bại vụ đảo chánh ở tại Algiers trước khi người ta có thể tung ra một cuộc đảo chánh liên hệ ở tại Paris.
Trong những năm 1968 và 1969, tiếp theo sau vụ xâm lăng dựa vào Hiệp Ước Vạc Xô Vi (Warsaw), người Tiệp và người Xờ lô Vắc (Slovaks) đã kháng cự lại trong suốt tám tháng trời sự kiểm soát toàn bộ của người Nga bằng đấu tranh bất bạo động ứng biến và bằng cách khước từ hợp tác. Từ 1953 đến 1990 những người bất đồng ý kiến tại những quốc gia do cộng sản cai trị ở Đông Âu, nhất là tại Đông Đức, Ba Lan, Hung Gia Lợi, và các Quốc Gia vùng Baltic, đã liên tục sử dụng những cuộc đấu tranh bất bạo động để gia tăng tự do. Cuộc đấu tranh tinh vi của Công Đoàn Đoàn Kết tại Ba Lan bắt đầu vào năm 1980 bằng những cuộc đình công hỗ trợ việc đòi hỏi một công đoàn tự do hợp pháp, và kết thúc vào năm 1989 với sự chấm dứt chế độ cộng sản Ba Lan. Đấu tranh bất bạo động cũng đã dứt điểm những nền độc tài cộng sản tại Tiệp Khắc năm 1989 và tại Đông Đức, Estonia, Latvia, và Lithuania năm 1991.
Vụ đảo chánh hụt của phe “cứng rắn” tại Moscow năm 1991 đã bị đánh bại bởi bất hợp tác và thách thức. Những vụ phản đối bất bạo động và đối kháng tập thể đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đánh đổ những chánh sách Phân Biệt Chủng Tộc (Apartheid) và sự thống trị của Âu châu tại Nam Phi, đặc biệt là vào những năm giữa 1950 và 1990. Nền độc tài Marcos đã bị tiêu huỷ bởi một cuộc nổi dậy bất bạo động vào năm 1986.
Vào tháng Bảy và tháng Tám năm 1988, những nhà dân chủ Miến Điện đã phản đối chống lại nền độc tài quân phiệt bằng những cuộc tuần hành và thách thức, lật đổ ba chính phủ, và cuối cùng cuộc đấu tranh này đã ngã gục trước một cuộc đảo chánh quân sự mới và sự tàn sát tập thể. Năm 1989 sinh viên Trung Hoa và những người khác nữa từ hơn ba trăm thành phố (bao gồm cả Quảng Trường Thiên An Môn, Bắc Kinh) đã tiến hành những cuộc phản đối có tính biểu tượng chống lại sự thối nát và áp bức của chính quyền, nhưng những cuộc chống đối này cuối cùng đã chấm dứt sau khi quân đội thi hành tàn sát tập thể.
Ở tại Kosovo dân chúng Albania trong khoảng thời gian giữa 1990 và 1999 đã xúc tiến một chiến dịch bất hợp tác chống lại nền cai trị đàn áp của người Serb. Khi chính quyền “trên thực tế” của Kosovo thiếu một chiến lược bất bạo động để tranh thủ cho một nền độc lập “trên pháp lí,” thì Quân Đội Du Kích Giải Phóng Kosovo đã khởi động bạo lực. Điều này đã bị phản ứng của người Serb bằng đàn áp khắc nghiệt và tàn sát tập thể được gọi là “rửa sạch chủng tộc,” [ethnic cleansing] đưa đến việc dội bom và can thiệp của Tổ Chức Bắc Phòng Đại Tây Dương.
Bắt đầu tháng Mười Một năm 1996 người Serb điều động những cuộc diễn hành và phản đối hằng ngày tại Belgrade và các thành phố khác chống lại chính quyền độc đoán của tổng thống Milosovic và bảo toàn công việc sửa sai gian lận bầu cử vào giữa tháng Giêng năm 1997. Tuy nhiên, lúc bấy giờ các nhà dân chủ Serb thiếu một chiến lược để thúc đẩy cuộc đấu tranh và đã thất bại trong việc tung ra một chiến dịch lật đổ nền độc tài Milosovic. Vào khoảng đầu tháng Mười năm 2000, Phong trào (đối kháng) Otpor và những nhà dân chủ khác lại nổi dậy chống lại Milosovic trong một cuộc đấu tranh bất bạo động được thiết kế cẩn thận và nền độc tài đã sụp đổ.
Khoảng đầu năm 2001 Tổng Thống Estrada, người bị cáo buộc tham nhũng, đã bị người Phi Luật Tân lật đổ trong chiến dịch “Sức Mạnh Thứ Hai của Nhân Dân.”
Để hiểu được rõ hơn về những cuộc đấu tranh này và hệ quả của chúng thì điều quan trọng là phải hiểu bản chất của kỹ thuật này.
Những đặc tính và phương pháp của đấu tranh bất bạo động
Trong loại đấu tranh này, thay vì sử dụng bạo lực người ta thực hành ba loại hành động tổng quát. Trước tiên, người ta dấn thân vào những cuộc chống đối có tính biểu tượng, như là tuần hành, đêm không ngủ, phân phát truyền đơn, hoặc mang sắc phục có màu sắc đặc biệt để chuyển đạt sự hỗ trợ, hay chống lại, một mục tiêu nào đó.
Thứ đến, những người đối kháng khước từ tiếp tục sự hợp tác hiện có, hay là khước từ bắt đầu một hợp tác mới, với đối phương hay với một số hành sử nào đó. Họ đã thực hành bất hợp tác. Sự bất hợp tác này đã mang những hình thái xã hội, kinh tế, và chính trị.
Ví dụ, những người đối kháng thực thi tẩy chay xã hội đối với đối phương hay là khước từ tham dự vào các nghi thức và lễ hội hoặc tham dự các buổi họp hay đi học tại các trường mà họ tin rằng đang hỗ trợ đối phương.
Những người đối kháng đã có lần ngưng hợp tác kinh tế bằng cách khước từ cung cấp hay chuyên chở hàng hoá và các dịch vụ hay bằng cách từ chối mua hay bán vật liệu và sản phẩm. Đôi khi các quan hệ kinh tế với một quốc gia thù nghịch đã bị ngưng lại do sáng kiến của chính quyền. Tất cả những điều này đều mang những hình thái tẩy chay kinh tế.
Các cuộc đình công lao động đã mang những hình thái khác nhau, như một là một vụ ngưng việc ngắn hạn có tính biểu tượng, đình công chỉ ở một xưởng duy nhất, một cuộc tổng đình công vĩ đại, hay là một cuộc ngưng mọi sinh hoạt kinh tế của một thành phố hay của một quốc gia.
Bất hợp tác chính trị đã từng bao gồm những vụ tẩy chay các cuộc bầu cử gian lận, bác bỏ tính hợp pháp của một chế độ, bất tuân phục mà không cần sự giám sát trực tiếp, bất hợp tác bởi nhân viên chính quyền, bất tuân dân sự đối với những đạo luật “phi đạo đức.”
Thứ ba, can thiệp năng động và gây gián đoạn cho sinh hoạt bình thường của hệ thống đã từng được áp dụng dưới nhiều hình thức khác nhau, tâm lý, xã hội, kinh tế, thể chất, và chính trị. Nhiều phương pháp can thiệp bất bạo động bao gồm chiếm đóng các văn phòng, biểu tình ngồi giữa đường phố, tuyệt thực, thiết lập các cơ chế kinh tế mới, xâm chiếm bất bạo động, tràn ngập các cơ sở hành chánh, tìm cách đi tù, và lập chính quyền song hành.
Các phương pháp đấu tranh bất bạo động được nhận dạng và xếp loại tuỳ theo loại hành động được áp dụng, chứ không phải tuỳ theo những động lực hay niềm tin của những người áp dụng hành động đó. Hết sức quan trọng là kỹ thuật này đã từng được áp dụng bởi những người có những niềm tin khác biệt nhau, và rõ ràng là kỹ thuật này không đòi hỏi một niềm tin nào về bất bạo động có tính đạo đức hay tôn giáo; điều này là một hiện tượng khác hẳn. Những người tham dự và những người lãnh đạo (nếu biết được) rất thường kềm hãm mình không sử dụng bạo lực vì người ta hiểu rằng bạo lực vừa không cần thiết vừa phản tác dụng. Một trăm chín mươi tám (198) phương pháp đấu tranh bất bạo động có sắp xếp được liệt kê ở phần Phụ Lục, và được trình bày đầy đủ cùng với những thí dụ lịch sử trong cuốn Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động, Phần Hai, Các Phương Pháp Đấu Tranh Bất Bạo Động của Gene Sharp. (Xem Phụ Lục Ba: Để Đọc Thêm).
Những quan điểm sai lạc
Một số quan điểm sai lầm và nhận định sai lạc phổ biến đã gây phiền phức cho việc thông hiểu đấu tranh bất bạo động. Sau đây là một vài sửa sai:
- Người ta thường tin một cách phổ quát là bạo lực đem lại thành công nhanh chóng, còn đấu tranh bất bạo động phải tốn nhiều thì giờ hơn. Cả hai niềm tin này đều sai lầm.
- Đấu tranh bất bạo động thường được tin là yếu, nhưng thực ra có thể rất mạnh. Đấu tranh bất bạo động có thể làm tê liệt và ngay cả phân huỷ một chế độ đàn áp.
- Đấu tranh bất bạo động không cần có một nhà lãnh đạo có sức lôi cuốn.
- Đấu tranh bất bạo động là một hiện tượng xuyên văn hoá.
- Đấu tranh bất bạo động không đòi hỏi bất cứ niềm tin tôn giáo nào (hẳn là không đòi hỏi niềm tin của một tôn giáo cụ thể nào), dù rằng đôi khi đã được thực thi với những động lực tôn giáo.
- Đấu tranh bất bạo động không đồng nghĩa với bất bạo động có nguyên tắc tôn giáo hay đạo đức, mà là một hiện tượng hoàn toàn khác biệt. Sự khác biệt này cần phải được làm rõ và không thể coi nhẹ được.
- Mặc dù người ta vẫn còn tin một cách phổ quát là kỹ thuật này chỉ thành công chống lại những đối thủ nhân đạo và dân chủ, nhưng kỹ thuật này đã từng có những lúc thành công trong việc chống lại những chế độ và những nền độc tài tàn bạo, bao gồm cả những nền độc tài Đức Quốc Xã và cộng sản.
- Một số người và phe nhóm đã từng nói rằng đấu tranh bất bạo động chỉ thành công bằng cách làm mềm lòng đối phương. Tuy nhiên, đấu tranh bất bạo động đã từng cưỡng ép và huỷ hoại những nền độc tài quá khích.
Những điều kiện để thành công
Chọn lựa sử dụng loại đấu tranh này không bảo đảm thành công, cũng như sử dụng bạo lực không bảo đảm thành công. Có những điều kiện để đạt đến thành công bằng kỹ thuật này, cũng như bằng bạo lực. Chỉ kềm hãm mình không sử dụng bạo lực và nói lên cụm từ “bất bạo động” mà thôi không đem lại những kết quả mong muốn.
Một vài thí dụ về đấu tranh bất bạo động trong quá khứ đã không đạt được mục tiêu. Một vài trường hợp chỉ tranh thủ được vài chiến thắng có giới hạn. Đôi khi chỉ là một chiến thắng ngắn hạn vì người ta đã không sử dụng chiến thắng này để củng cố và, có lẽ, để định chế hoá những thắng lợi này, hoặc cũng đã không kháng cự lại một cách hữu hiệu những đe doạ mới đối với sự tự do của họ. Trong những trường hợp khác, chiến thắng trong một chiến dịch duy nhất đem lại một số nhượng bộ, nhưng đòi hỏi cần phải có những cuộc đấu tranh mới để đạt được toàn bộ các mục tiêu.
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp người ta đã đạt được những chiến thắng lớn lao mà đối kháng bằng bạo lực sẽ không thể nào đạt được. Để hiểu được rõ ràng hơn những kết quả như thế, thì cần phải thông hiểu bản chất của kỹ thuật này.
Mặc dù những phương cách đấu tranh bất bạo động “vận hành” khác biệt nhau rất nhiều, từ trường hợp này đến trường hợp khác, nhưng điều quan trọng là nhận diện được hai tiến trình đặc biệt khẩn yếu có thể có trong một số cuộc đấu tranh bất bạo động, nhưng không phải trong tất cả mọi cuộc đấu tranh bất bạo động. Đó là: (1) khả năng thách thức và đôi khi đảo ngược lại hiệu quả của sự đàn áp, và (2) khả năng xói mòn và cắt đứt những nguồn sức mạnh của đối phương.
Đàn áp và nhu thuật chính trị
Hiển nhiên là những nhà độc tài thường nhạy cảm đối với những hành động và ý nghĩ đe doạ quyền lực muốn làm gì thì làm tuỳ thích của họ. Những kẻ áp bức do đó thường có khuynh hướng đe doạ và trừng phạt những người bất tuân phục, đình công, hay khước từ hợp tác. Tuy nhiên, đàn áp và ngay cả những bạo tàn cũng không luôn luôn đem lại mức độ khuất phục và hợp tác cần thiết để làm cho chế độ có thể sinh hoạt được.
Trong một vài trường hợp, chứ không phải trong mọi trường hợp, đàn áp khắc nghiệt có thể khởi động một tiến trình đặc biệt gọi là “nhu thuật chính trị.”
Những khó khăn của đối phương trong việc đối đầu với đấu tranh bất bạo động chủ yếu liên hệ đến những động năng và tiến trình đặc biệt của kỹ thuật này. Kỹ thuật này được thiết kế để vận hành chống lại những đối thủ có khả năng và sẵn lòng sử dụng những hình phạt bạo lực. Tuy nhiên, đấu tranh chính trị bằng hành động bất bạo động chống lại đàn áp sẽ tạo nên một hoàn cảnh xung đột đặc biệt, bất tương xứng. Những người đối kháng bất bạo động có thể dùng sự bất tương xứng của những phương tiện bất bạo động ngược lại với hành động bạo động để áp dụng đối với các đối thủ một lối vận hành chính trị tương tự như võ thuật nhu thuật của Nhật Bản. Sự tương phản của hai loại hành động đẩy đối thủ vào thế mất thăng bằng chính trị, là do sự đàn áp của họ dội ngược trở lại chống vị thế của họ và làm suy yếu quyền lực của họ. Bằng cách duy trì bất bạo động trong lúc vẫn tiếp tục đấu tranh, những người đối kháng sẽ cải tiến được vị thế sức mạnh của chính mình. Tiến trình này được gọi là nhu thuật chính trị.
Nhu thuật chính trị làm cho bất cứ nhóm người nào trong ba nhóm có thể có sau đây, hay là cả ba nhóm, càng ngày càng ghét bỏ đối phương: những thành viên của chính phe đối phương, những thành phần dân chúng bị ảnh hưởng bởi các vấn đề tranh chấp, và những thành phần thứ ba không liên hệ trực tiếp đến cuộc xung đột. Sự ghét bỏ này có thể đưa đến kết quả gia tăng chống đối nội bộ trong hàng ngũ đối phương. Sự ghét bỏ này cũng có thể gia tăng con số những người đối kháng cũng như mức độ đối kháng. Nó cũng thường chuyển hoá những thành phần thứ ba trở nên chống lại các đối thủ và thuận lợi cho những người đối kháng.
Xói mòn quyền lực của đối phương
Nhu thuật chính trị không vận hành trong tất cả mọi hoàn cảnh hay là trong tất cả mọi trường hợp đấu tranh bất bạo động. Phương cách vận hành chính yếu của nhu thuật chính trị là xói mòn những nguồn sức mạnh mà các đối thủ, ngay cả những nền độc tài, đều đòi hỏi cần phải có. Tiến trình này vận hành chủ yếu trong những cuộc đấu tranh mà mục tiêu là tạo áp lực hay cưỡng ép chính quyền phải làm, hay không được làm một điều gì đó, hay là khi mục tiêu là phân huỷ chế độ.
Nguyên tắc thì đơn giản. Các nhà độc tài đòi hỏi sự hỗ trợ của dân chúng mà họ cai trị, không có sự hỗ trợ này họ không thể thủ đắc và duy trì được những nguồn sức mạnh chính trị mà họ cần có. Những nguồn sức mạnh chính trị này bao gồm:
- Quyền hành,hay tính hợp pháp;
- Nhân lực, những người và những nhóm người tuân phục, hợp tác, và phụ trợ các nhà cai trị;
- Các kỹ năng và kiến thức, cần thiết cho chế độ và được cung cấp bởi những người và những nhóm người hợp tác;
- Những nhân tố không nắm bắt được, những nhân tố tâm lý và ý thức hệ có thể khuyến dụ người ta tuân phục và hỗ trợ các nhà cai trị;
- Tài nguyên vật chất, kiểm soát hay tiếp cận được với tài sản, tài nguyên thiên nhiên, các nguồn tài chánh, hệ thống kinh tế, và các phương tiện truyền thông và vận chuyển; và
- Các chế tài, các trừng phạt, được đe doạ hay áp dụng, để bảo đảm có được sự khuất phục và hợp tác cần có để chế độ có thể thực thi những chánh sách của mình và có thể tồn tại.
Tuy nhiên, tất cả những nguồn lực này lệ thuộc vào sự chấp nhận chế độ, vào sự khuất phục và tuân phục của dân chúng, và vào sự hợp tác của nhiều người và nhiều cơ chế của xã hội.
Do đó sức mạnh và sự hiện hữu của quyền lực chính trị luôn luôn lệ thuộc vào sự tái tục cung ứng các nguồn lực nhờ sự hợp tác của vô số cơ chế và của con người — một sự hợp tác có thể được tiếp tục hay không tiếp tục. Quyền lực chính trị do đó có thể mong manh và luôn luôn lệ thuộc vào xã hội mà ở đó quyền lực này đang được áp dụng.
Sự khuất phục và hợp tác cần thiết này không được bảo đảm, và mỗi nguồn sức mạnh đều dễ bị hạn chế và mất mát. Đấu tranh bất bạo động có thể trực tiếp nhắm đánh vào khả năng tranh thủ từng nguồn lực này. Tuỳ thuộc vào vài yếu tố, người ta có thể có tiềm năng làm suy yếu hay ngay cả cắt đứt sự cung cấp tất cả những nguồn lực này.
Bất hợp tác và thách thức thường phá vỡ sự tuân phục và hợp tác trong việc cung ứng những nguồn sức mạnh cần thiết. Ví dụ, bác bỏ tính hợp pháp của các nhà cai trị sẽ giảm thiểu lý do cốt yếu để những người trợ tá và quần chúng nói chung tuân phục. Dân chúng bất tuân và thách thức nhiều sẽ tạo ra những vấn đề trọng đại về vấn đề thi hành luật pháp. Những cuộc đình công lớn có thể làm tê liệt kinh tế. Bất hợp tác hành chánh lan rộng của hệ thống bàn giấy có thể cản trở những sinh hoạt của chính quyền. Những cuộc nổi loạn của cảnh sát và quân đội của đối phương có thể làm tan biến khả năng của đối phương đàn áp những người đối kháng bất bạo động và khả năng duy trì chế độ.
Không có được những nguồn sức mạnh này, quyền lực của đối phương sẽ suy yếu và rốt cuộc sẽ tiêu tan. Chế độ sẽ chết đi vì đói khát chính trị.
Trái ngược lại với ý kiến phổ quát, ngay cả những nền độc tài toàn trị cũng lệ thuộc vào sự hỗ trợ của dân chúng và những xã hội mà họ cai trị, như nhà khoa học chính trị Karl W. Deutsch đã từng lưu ý năm 1953.3
Bốn cách thành công
Những cuộc đấu tranh bất bạo động thành công thường “vận hành” theo bốn phương cách. Những phương cách vận hành khác nhau này tuỳ thuộc rất nhiều vào hoàn cảnh xung đột cụ thể, vào những vấn đề tranh chấp, vào cấu trúc xã hội của dân chúng đối kháng, vào bản chất của các đối thủ, vào đại chiến lược (nếu có) đã được lựa chọn, vào phương thức thay đổi vừa ý, vào những phương pháp cụ thể được sử dụng, và vào kỹ năng, kỷ luật, và sự kiên quyết của những người đối kháng. Những áp lực tạo ra có thể là tâm lý, xã hội, kinh tế, và chính trị, mỗi áp lực theo những cường độ khác nhau.
Thêm vào đó, đấu tranh bất bạo động có thể tác động lên sự ổn định của hệ thống xã hội và chính trị hoặc có thể thay đổi sự vận hành của hệ thống này. Cuộc đấu tranh còn có thể tác động lên khả năng của đối phương tiếp tục những chánh sách nào đó. Trong một số những cuộc xung đột, bất hợp tác bất bạo động và thách thức có thể làm suy sụp khả năng của đối phương tiếp tục cai trị, hay ngay cả có thể phân huỷ cả chế độ của họ.
Trong những trường hợp thành công, sự thay đổi có thể xảy ra như là kết quả của một trong bốn phương thức. Hiếm khi, những thay đổi thái độ, như là kết quả của đấu tranh bất bạo động, đưa đối thủ đến những nhượng bộ vì làm như vậy là đúng – đó là phương thúc cải hoá. Thường hơn nhiều là sự rút lui hợp tác về kinh tế và chính trị đã ép buộc đối phương phải đồng ý đi đến thoả hiệp – đó là thích nghi. Có lúc sự thách thức và bất hợp tác đã quá mạnh và nhắm đích một cách quá tài tình, và những nguồn sức mạnh của các đối thủ đã bị làm cho quá suy yếu đến độ đối phương bị rơi vào thế không còn giải pháp nào hơn là đầu hàng – đó là cưỡng ép bất bạo động. Trong một vài trường hợp hiếm hoi, sự thách thức và bất hợp tác đã trở nên quá lớn lao, và việc cắt đứt những nguồn sức mạnh của đối phương đã quá vẹn toàn, đến nỗi chế độ chỉ còn cách sụp đổ mà thôi – đó là phương thức phân huỷ.
Các sử dụng của một kỹ thuật tinh xảo
Việc kỹ thuật đấu tranh bất bạo động có là, hay được làm cho trở thành, một đóng góp chính yếu cho việc giải quyết vấn đề bạo lực trong xã hội và chính trị hay không sẽ một phần lớn hé cho thấy là đấu tranh bất bạo động có giúp giảm thiểu được sự trông cậy vào bạo lực trong những cuộc xung đột nghiêm trọng hay không. Đấu tranh bất bạo động có thể nào được làm cho hữu hiệu đủ để được sử dụng trong những cuộc đấu tranh nghiêm trọng thay cho bạo lực hay không? Trong một vài trường hợp câu trả lời của một vài người có thể rõ ràng là “được,” nhưng trong những trường hợp khác, câu trả lời có thể là “có lẽ được,” “không chắc,” hay là “không được.” Những câu trả lời này sẽ có khuynh hướng tuỳ thuộc vào mức độ hiểu biết mà những người này có về kỹ thuật này và vào mức độ đấu tranh bất bạo động được xem là có khả năng cung ứng một giải pháp thay thế hữu hiệu cho bạo lực trong những cuộc xung đột nghiêm trọng.
Người ta có thể học hỏi làm thế nào để làm cho đấu tranh bất bạo động được hữu hiệu hơn là những ứng dụng ứng biến trong quá khứ. Điều này có thể thực hiện được bằng cách gia tăng kiến thức của chúng ta về những đòi hỏi của kỹ thuật này, phổ biến rộng rãi kiến thức và sự thông hiểu này, và gia tăng thiết kế và chiến lược tổng quát và cụ thể cho việc sử dụng kỹ thuật này trong những xung đột nghiêm trọng trong tương lai.
Việc đưa ra một giải pháp thoả đáng cho vấn đề bạo lực, và việc xem xét sự phát triển chính trị trong tương lai của đấu tranh bất bạo động, đòi hỏi là chúng ta phải lưu ý đến vai trò hiện tại và vai trò tiềm năng trong tương lai của kỹ thuật này. Điều này đặc biệt quan trọng trong những cuộc xung đột nghiêm trọng mà trong đó nhiều người và nhiều chính quyền tin là cần phải có phương tiện quân sự và các hình thức bạo lực khác. Những câu hỏi được đặt ra là: chúng ta có thể thông hiểu và làm cho kỹ thuật này được tinh xảo đến mức độ nào, và kỹ thuật này có thể thay thế cho bạo lực một cách hữu hiệu đến chừng nào?
Sự phát triển chính trị trong tương lai của đấu tranh bất bạo động cần bao gồm những giải pháp bất bạo động thay thế cho bạo lực trong những loại xung đột sau đây:
- Lật đổ các nền độc tài;
- Chặn đứng những vụ đảo chánh mới và ngăn cản những nền độc tài mới;
- Bảo vệ chống ngoại bang xâm lược và chiếm đóng;
- Bảo toàn sự sinh tồn và lối sống của những dân tộc bản địa;
- Xoá bỏ những bất công xã hội và kinh tế;
- Phát triển, bảo toàn, và phát huy những thực thi dân chủ và nhân quyền; và
- Hội nhập những phương tiện bất bạo động vào trong các xã hội dân chủ bằng những phương cách khác nữa.
Giảm thiểu trông cậy vào chiến tranh và các hình thức bạo lực khác
Để đạt những mục đích này và những mục đích tổng quát khác, và cho những cuộc đấu tranh cụ thể, người ta cần phải thiết lập những kế hoạch chiến lược để làm cho giải pháp bất bạo động có thể được áp dụng một cách hữu hiệu. Khi điều này được thực hiện tăng theo từng bước một, thì từ bước này đến bước khác người ta sẽ có thể thay thế đấu tranh bất bạo động đã được tinh xảo hoá cho việc sử dụng bạo lực trong những cuộc đấu tranh nghiêm trọng.
Để đáp ứng thách đố này — để khai phá và phát huy tiềm năng của đấu tranh bất bạo động nhằm giải quyết những xung đột nghiêm trọng – thì đòi hỏi cần phải có nhiều điều nghiên, phân tách, nghiên cứu chiến lược, thiết lập chánh sách, lập kế hoạch, và hành động can đảm.
Cần phải có những công cụ của các sử gia, những nhà tâm lý xã hội, những nhà xã hội học, những lý thuyết gia về xã hội và chính trị, những khoa học gia chính trị, những chiến lược gia, và những người khác nữa. Điều quan trọng không phải chỉ là nghiên cứu đấu tranh bất bạo động mà thôi, mà còn phải xét định những đề tài khác nữa, bao gồm các nhược điểm và những điểm dễ bị tổn thương của các nền độc tài và của những hệ thống áp bức khác nữa.
Học hỏi làm thế nào để phát huy và phổ biến khả năng suy tư một cách chiến lược và làm thế nào để thiết kế các chiến lược cho những cuộc đấu tranh bất bạo động trong tương lai cũng rất quan trọng.
Áp dụng những nỗ lực này sẽ đòi hỏi phải vượt quá, và thường là chống lại, những khuynh hướng quan trọng đã được ổn định của xã hội hiện đại và của những lực lượng hùng mạnh quốc gia và quốc tế. Việc tập trung quyền lực, việc quân sự hoá chính trị liên quốc gia, sự bá quyền của những phương pháp truyền thống về lối giải quyết vấn đề, những điều này và những nhân tố khác đều vận hành chống lại sự thẩm xét có lý luận về ý nghĩa tiềm năng của đấu tranh bất bạo động.
Tuy nhiên vẫn có cơ sở để đưa ra ý kiến là việc một xã hội lựa chọn là rốt cuộc nên trông cậy vào bạo lực hay trông cậy vào đấu tranh bất bạo động trong một số xung đột nghiêm trọng sẽ có những hậu quả hết sức quan trọng đối với cấu trúc xã hội và chính trị. Hình như rất rõ ràng là đấu tranh bằng bạo lực có khuynh hướng tạo ra một hệ thống chính trị tập quyền, và có tiềm năng đàn áp nhiều hơn, trong khi đấu tranh bất bạo động lại có khuynh hướng tạo ra một hệ thống chính trị tản quyền, và được dân chúng kiểm soát nhiều hơn. Khả năng quân sự có thể được sử dụng trong nước để đàn áp dân chúng, trong lúc đấu tranh bất bạo động có thể được dân chúng sử dụng để tranh thủ và bảo vệ các tự do và để kháng cự lại sự đàn áp tập trung.
Xét định cẩn trọng có thông tin về ý nghĩa tiềm năng và tính khả thi của những phương tiện áp dụng các áp lực và sức mạnh bất bạo động có lẽ sẽ phát hiện được những giải pháp thực tiễn mà từ trước đến nay chưa từng được khai phá đầy đủ. Phương cách này có tiềm năng tạo nên những thay đổi nền tảng trong chính trị và bang giao quốc tế hiện đại qua việc giảm thiểu sự trông cậy vào bạo lực.
Việc chúng ta thành công được bao nhiêu trong việc thay thế những hình thái tranh đấu bạo động bằng những hình thái đấu tranh bất bạo động, do đó giảm thiểu rất nhiều sự trông cậy vào quân sự và những phương tiện bạo động khác, sẽ được quyết định rất nhiều bởi mức độ mà chúng ta có thể đưa ra và áp dụng những giải pháp đấu tranh bất bạo động thay thế hữu hiệu.
Câu hỏi không thể tránh được là liệu chúng ta có chịu nỗ lực làm cho kỹ thuật này được tinh xảo và sửa đổi lại cho phù hợp với hoàn cảnh và chấp thuận sử dụng nó trong những cuộc đấu tranh nhằm thách thức, điền thế, và xoá bỏ những thể hiện bạo lực cực đoan bằng hành động hữu hiệu và mạnh mẽ hay không.
CƯỚC CHÚ:
1“Bạo lực” ở đây được hiểu theo nghĩa hẹp là bạo lực thể xác chống lại con người gây nên thương tích hay chết chóc, hay là hành động lệ thuộc vào sự đe doạ về những hệ quả như thế, chứ không phải là một từ mang ý nghĩa luân lí hay chính trị.
2Jerome D. Frank, “Những Vấn Nạn về Tâm Lý trong việc Loại Bỏ Chiến Tranh” trong cuốn Ngăn Chặn Thế Giới Đại Chiến thứ III: Một Vài Đề Nghị. New York: Simon and Schuster, 1962.
3Karl W. Deutsch, “Những Nứt Rạn nơi Cây Độc Thạch: Những Khả Dĩ và Mô Thức Phân Hủy trong các Hệ Thống Toàn Trị,” trong cuốn Toàn Trị, tt. 308-333, của Carl J. Frederick, btv. Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1954.
0 Comments