Thành công và thất bại trong đấu tranh bất bạo động
Những cuộc xung đột do đấu tranh bất bạo động tiến hành đã từng hữu hiệu hơn là thường được thừa nhận. Điều này đã được chứng minh qua nhiều trường hợp đã được mô tả trước đây và những trường hợp này chỉ là một số mẫu được chọn về những áp dụng kĩ thuật này trong thế kỉ trước mà thôi.
Đấu tranh bất bạo động không phải là ma thuật. Đấu tranh bất bạo động đôi khi thành công trong việc đạt các mục tiêu đã đề ra và có lúc đã thất bại. Thất bại theo những ý nghĩa chính trị thì luôn luôn có thể xảy ra, cũng như trong chiến tranh hay những hình thái bạo động khác. “Thất bại” ở đây có nghĩa là không đạt được những mục tiêu của cuộc đấu tranh. “Thành công” có nghĩa là những mục tiêu của cuộc đấu tranh đã đạt được. Đôi khi kết quả của cuộc đấu tranh là những lẫn lộn của thành công và thất bại, với một số mục tiêu đạt được và một số không đạt được. Điều này cũng đúng với những cuộc đấu tranh tiến hành bằng bạo lực.
Mức độ hữu hiệu của đấu tranh bất bạo động dĩ nhiên cần phải được so sánh với mức độ hữu hiệu của đấu tranh bạo động trong việc đạt được những mục tiêu tuyên bố và vì những mục tiêu này mà cuộc đấu tranh đã được tiến hành, chứ không phải chỉ trong việc đè bẹp thân xác đối phương mà thôi. Rất thường trong những cuộc thảo luận về hiệu quả, người ta hay có giả thuyết theo hệ luận là bạo lực là lực lượng mạnh và hữu hiệu nhất có thể có được để đạt những mục tiêu dự định. Điều này không đúng. Nếu người ta đo lường mức độ mà những mục tiêu nguyên thuỷ của cuộc đấu tranh thực sự đạt được, thì hiệu quả của cuộc đấu tranh bạo động thường bị giới hạn khá nhiều và hiệu quả của đấu tranh bất bạo động thường lớn hơn là thông thường được thừa nhận. Đúng vậy, dù những trường hợp đấu tranh bất bạo động trong quá khứ chỉ được thiết kế hay chuẩn bị tối thiểu mà thôi.
Bác bỏ những lối cắt nghĩa đơn giản
Trong lúc xét làm thế nào để làm cho đấu tranh bất bạo động hữu hiệu hơn thì khẩn thiết cần phải bác bỏ đi những lối cắt nghĩa đơn giản và các lời biện minh cho thất bại. Những điều này bao gồm sự khẳng quyết rằng mục đích đề ra gần như là không quan trọng bằng việc những người đối kháng cảm thấy thoải mái về những hành động của mình, rằng việc không sử dụng bạo lực là đủ rồi, hay rằng việc những người đối kháng sẵn lòng chịu chết là quan trọng hơn cả. Cảm giác thoải mái, không dấn thân vào bạo lực, hay là sẵn lòng chịu chết, mà không đạt được các mục đích của cuộc đấu tranh, thì cũng không thay đổi được sự kiện là mình đã thất bại.
Nhiều quan niệm phổ biến về điều đòi hỏi cần phải có để làm cho đấu tranh bất bạo động thành công cũng không vững. Những quan niệm sai lầm này bao gồm niềm tin là thành công đòi hỏi đối phương phải dân chủ, hay ngay cả bất bạo động. Vài người lí luận rằng thành công đòi hỏi sự hỗ trợ của thế giới, sự phụ trợ của phương tiện truyền thông, và một khoảng thời gian dài hơn phương thức sử dụng bạo lực đòi hỏi rất nhiều mới thành công được, hay là một “bầu không khí bất bạo động.” Tất cả những điều này đều không chính xác.
Đã có ý kiến cho rằng nếu một nhóm sử dụng hành động bất bạo động thì người ta trông đợi đối phương phản ứng cũng bằng bất bạo động. Ngược lại nếu phản ứng là bạo động thì người ta nghĩ là đã có điều gì sai. Quan điểm này cũng không đúng. Nhóm hay là chế độ của đối phương thường trông cậy vào bạo lực để duy trì bản thân và các cách hành sử của họ. Khi đối phương bị thách thức bằng bất bạo động, đàn áp bằng vũ lực sau đó là chỉ dấu phong trào bất bạo động đang đe doạ nguyên trạng. Hành động bất bạo động là một kĩ thuật để đánh đổ những đối thủ bạo động.
Các điều kiện cần có cho cuộc đấu tranh
Những yếu tố về hoàn cảnh có ích cho việc áp dụng đấu tranh bất bạo động không nên bị nhầm lẫn với những yếu tố đòi hỏi cần phải có. Không có những yếu tố này, cuộc đấu tranh nhất định sẽ phải thất bại. Có những điều kiện bên trong và bên ngoài, thuận lợi và bất thuận lợi cho việc tiến hành đấu tranh bất bạo động. Tuy nhiên, những điều kiện thuận lợi không phải là những đòi hỏi tuyệt đối. Vài cuộc đấu tranh bất bạo động đã thành công trong những điều kiện rất yếu kém bởi vì những người đối kháng đã bù trừ những điều kiện không thuận lợi đặc biệt của mình bằng cách phát huy sức mạnh và các kĩ năng của mình trong việc làm thế nào để hành động trong những điều kiện như thế.
Dù sao thì cũng không có gì có thể thay thế cho sức mạnh thực sự của chính cuộc đấu tranh bất bạo động được. Nếu những người tham gia trong một cuộc đấu tranh bất bạo động chưa có sức mạnh, sự quyết tâm, và khả năng đủ để hành động sành sỏi chống lại đối phương, thì chỉ chấp nhận cuộc đấu tranh bằng lời nói không mà thôi sẽ không cứu vãn họ được. Đòi hỏi cần phải có những nỗ lực có chủ ý nhằm phát triển sức mạnh, kĩ năng, và khả năng hành động một cách khôn ngoan.
Nếu những đặc tính này vượt quá tầm tay đối với tiềm năng của nhóm đấu tranh bất bạo động thì nhóm chưa nên vươn xa hơn các chiến dịch giới hạn; ít mạo hiểm, dành cho những mục tiêu ngắn hạn tương đối dễ dàng. Hầu hết sự chú ý của nhóm phải được tập trung vào việc xây dựng những khả năng của nội bộ. Chỉ khi nào nhóm mạnh, quyết tâm, và có kĩ năng thì mới nên thử leo thang chiến lược trong đấu tranh để tranh thủ những mục tiêu dài hạn của nhóm.
Những nhân tố ảnh hưởng đến kết quả
Có nhiều nhân tố quyết định kết quả của đấu tranh bất bạo động1. Một vài trong số những nhân tố này nằm trong “hoàn cảnh xã hội,” vài nhân tố liên hệ đến nhóm đối phương, một vài nhân tố liên hệ đến những thành phần thứ ba, và nhiều nhân tố khác lại liên hệ đến nhóm đấu tranh bất bạo động. Nhóm đấu tranh bất bạo động có thể ảnh hưởng đến nhiều, nhưng không phải tất cả, những nhân tố này.
(1) Các nhân tố trong hoàn cảnh xã hội. Các nhân tố này bao gồm mức độ xung khắc quyền lợi giữa hai nhóm, khoảng cách xã hội giữa họ, mức độ hai nhóm cùng chia sẻ những niềm tin và những phạm trù xã hội, và mức độ mà dân chúng đối kháng có các nhóm và các cơ chế quan trọng.
(2) Những nhân tố liên hệ đến nhóm hay chế độ của đối phương. Những nhân tố này bao gồm mức độ đối phương bị lệ thuộc vào những người bất hợp tác về những nguồn sức mạnh của họ, và mức độ bất phục tòng mà đối phương có thể chịu đựng nổi. Những yếu tố này cũng còn bao gồm mức độ đối phương và những người ủng hộ tin vào những quan điểm và chính sách của họ và vào sự đúng lẽ phải và lí biện giải cho sự đàn áp hay những trừng phạt khác đối với những người đối kháng bất bạo động.
Những nhân tố trong nhóm nầy bao gồm những phương tiện kiềm chế và đàn áp mà đối phương có thể sử dụng; mức độ các nhân viên đàn áp tuân phục lãnh đạo của nhóm đối phương; mức độ đoàn kết trong nhóm đối phương; mức độ trung thành trong hệ thống hành chánh và cảnh sát và lực lượng quân đội; mức độ tập thể dân chúng của nhóm đối phương ủng hộ chánh sách và sự đàn áp của nhóm họ; và sự phỏng định của đối phương về tiến trình trong tương lai của phong trào đấu tranh bất bạo động và những hậu quả của phong trào.
(3) Các nhân tố liên hệ đến những thành phần thứ ba. Những nhân tố này bao gồm mức độ các thành phần thứ ba trở nên có thiện cảm với đối phương hay đối với nhóm đấu tranh bất bạo động, và mức độ các ý kiến và thiện ý của những thành phần thứ ba quan trọng đối với hai nhóm như thế nào. Những nhân tố này cũng bao gồm mức độ các thành phần thứ ba trở nên hỗ trợ năng động, hoặc bất hợp tác với, một trong hai nhóm đang tranh chấp.
(4) Các nhân tố liên hệ đến nhóm đấu tranh bất bạo động. Loại này bao gồm nhóm nhân tố có ý nghĩa quan trọng hơn cả, vì đây là những nhân tố mà nhóm đấu tranh bất bạo động có thể ảnh hưởng nhiều hơn hết. Những nhân tố này bao gồm khả năng tổ chức và hành động tự phát theo đúng những yêu cầu của đấu tranh bất bạo động; mức độ những người đối kháng và nhóm khiếu nại tin vào lẽ phải của lí tưởng đấu tranh của mình; và mức độ tin tưởng vào đấu tranh bất bạo động giữa những nhóm này. Cũng quan trọng nữa là các loại phương pháp bất bạo động được chọn lựa để sử dụng bởi nhóm đấu tranh bất bạo động và việc nhóm này có có khả năng áp dụng những phương pháp đó hay không; sự hoàn chỉnh của chiến lược và các chiến thuật được chọn lựa hay chấp thuận bởi nhóm đấu tranh bất bạo động; và những yêu cầu của nhóm đấu tranh bất bạo động đối với thành viên của mình có nằm trong khả năng của những người nầy thoả mãn được hay không.
Thêm vào đó, khả năng tương đối của những người đối kháng thi hành kĩ thuật này rất quan trọng, cũng như mức độ nhóm này có thể hành động trong kỉ luật để thực hiện các kế hoạch. Số người tham gia trong các hành động sẽ quan trọng trong một vài trường hợp, như là những trường hợp lệ thuộc nặng nề vào việc sử dụng bất hợp tác, với điều kiện là số người thích hợp với việc duy trì cả phẩm chất cần có của các sinh hoạt lẫn những yêu cầu đối với việc sử dụng phương thức tạo thay đổi đã được lựa chọn.
Việc nhóm khiếu nại nói chung có hỗ trợ nhóm đấu tranh bất bạo động hay không hay là cản trở những hành động của họ sẽ rất quan trọng. Sự khốc liệt của đàn áp, và có thể là khủng bố, do nhóm đối phương áp đặt có thể quan trọng vì giữ được sự quân bình với khả năng kiên quyết đối kháng của những thành viên của nhóm đấu tranh. Việc những người đối kháng có thể và có sẵn lòng tiếp tục cuộc đấu tranh đến bao lâu, khả năng của họ giữ được cuộc đấu tranh không bạo động, và, trong những hoàn cảnh bình thường, duy trì được tình trạng không bí mật về những hành động của họ cũng có thể quan trọng.
Một nhân tố khác là có được lãnh đạo hữu hiệu, hay là khả năng của nhóm hành động trong kỉ luật theo đúng chiến lược khôn ngoan mà không cần một nhóm lãnh đạo quan trọng có thể nhận dạng ra được. Một nhân tố nữa là mức độ những người đối kháng có thể tạo được thiện cảm và hỗ trợ trong số những thành viên của nhóm đối phương. Sau cùng là mức độ nhóm đấu tranh bất bạo động kiểm soát được các nguồn sức mạnh của chính mình cũng quan trọng không kém.
Tăng xác suất thành công
Ngoại trừ một vài nhân tố thuộc hoàn cảnh xã hội, hầu hết các nhân tố vận hành trong các cuộc xung đột đều phải chịu sự thay đổi, thường là thay đổi đáng kể, trong suốt tiến trình của cuộc đấu tranh bất bạo động. Những thay đổi như thế sẽ đem lại kết quả tăng hay giảm sức mạnh của nhóm đối phương và cũng của nhóm đấu tranh bất bạo động nữa. Nếu những chuyển đổi này gia tăng sức mạnh của nhóm đối phương một cách đáng kể trong lúc sức mạnh của nhóm đấu tranh bất bạo động bị giảm thiểu thì đối phương sẽ có chiều hướng thắng. Tuy nhiên, ngược lại nếu sức mạnh của đối phương bị xói mòn bằng cách siết chặt những nguồn sức mạnh của họ lại trong lúc sức mạnh của nhóm đấu tranh bất bạo động tăng trưởng, thì xác suất thành công của nhóm đấu tranh bất bạo động sẽ được gia tăng rất nhiều.
Những thay đổi này có thể trực tiếp hay gián tiếp bị ảnh hưởng bởi những hành động của nhóm đấu tranh bất bạo động. Vì vậy cần phải chăm lo rất nhiều đến việc chuẩn bị và xúc tiến những hành động này. Kĩ năng, sức mạnh, kỉ luật, chiến lược khôn ngoan, số người tham gia, và sự kiên quyết nằm trong số những phẩm chất khẩn yếu này.
Trong số những nhân tố liệt kê ở trên có tiềm năng nằm dưới sự kiểm soát của nhóm đấu tranh bất bạo động, có năm nhân tố nổi bật như là những nhân tố đặc biệt quan trọng:
Một khi người dân mong ước gia tăng khả năng tranh thủ những mục tiêu quan trọng thì họ sẽ cố gắng thực hiện những nỗ lực mạnh mẽ nhằm gia tăng các khả năng của mình trong năm lãnh vực này. Tuy nhiên, nếu chỉ có được ba lãnh vực đầu, mà không có những kế hoạch chiến lược khôn ngoan, thì xác suất thành công không được lớn. Ngay cả có được một nhóm mạnh sẵn lòng hành động, thì hành động cũng khó mà tạo được tác dụng đáng kể nếu không biết được cần phải làm gì và làm như thế nào.
Tuy nhiên, có kiến thức về đấu tranh bất bạo động mà không có khả năng quyết định làm thế nào để áp dụng kiến thức này cho hữu hiệu thì vẫn không đủ. Việc thiết lập và áp dụng những chiến lược khôn ngoan nhằm gia tăng hiệu năng trong việc sử dụng kĩ thuật này là điều tối quan trọng.
Không có chuẩn bị để được thành công
Một vài nỗ lực áp dụng đấu tranh bất bạo động đã thành công hơn những nỗ lực khác rất nhiều. Như chúng ta đã thấy, có nhiều nhân tố đóng góp vào việc quyết định sự thành công hay thất bại của một nỗ lực nào đó.
Thành công không nên để mặc cho rủi may. Những người đối kháng có thể thực hiện những bước tiến có chủ ý gia tăng xác suất đạt các mục tiêu của mình. Một trong những nhân tố quan trọng hơn cả là việc sử dụng các nguồn lực và hành động sẵn có theo những phương cách làm tăng hiệu lực của những nguồn lực này trong cuộc đấu tranh. Điều này đòi hỏi phải có thiết kế chiến lược.
Rất tiếc là công việc thiết kế như thế trong những cuộc đấu tranh bất bạo động thường hiếm khi có được sự lưu tâm thích đáng. Hoạ hoằn lắm thì những người đối diện với viễn tượng của những xung đột như thế mới hoàn toàn thừa nhận tầm quan trọng cùng cực của việc chuẩn bị một kế hoạch toàn bộ trước khi hành động.
Một vài người ngây ngô nghĩ rằng họ chỉ đơn giản khẳng định mục đích của họ một cách mạnh mẽ và cứng rắn, trong một khoảng thời gian lâu đủ, thì bằng một cách nào đó họ sẽ đạt được mục đích của mình. Một số khác cho rằng nếu họ giữ được trung thực đối với những nguyên tắc và lí tưởng của họ, và làm chứng nhân cho những nguyên tắc và lí tưởng này dù phải đối diện với nghịch cảnh, có nghĩa là họ đang làm tất cả những gì họ có thể làm được để tranh thủ những mục tiêu của họ. Vài người tin rằng nếu họ hành động can đảm và hi sinh thì họ không cần phải làm gì thêm nữa. Có những người khác chỉ đơn giản lặp lại loại hành động mà họ đã từng làm trong quá khứ, hoặc tin là loại hành động đó cần phải có do lí thuyết chính trị của họ đòi hỏi và tin là cuối cùng họ sẽ thành công.
Khẳng định những mục đích tốt đẹp, trung thành với lí tưởng, và kiên quyết, tất cả đều đáng ca ngợi, nhưng chỉ những điều này không mà thôi thì quyết là không đủ để đạt được những mục đích có ý nghĩa. Đơn thuần chỉ lặp lại những hành động đã thất bại trong quá khứ thường làm cho thành công không thể đạt được. Kĩ thuật đấu tranh bất bạo động có những đặc tính đặc biệt, và có những nhân tố quan trọng đóng góp vào hiệu quả của kĩ thuật này, như chúng tôi đã có bàn đến trước đây.
Trong những hoàn cảnh xung đột người ta thường dễ bị chia trí, không lưu tâm đến mục đích chính của mình bằng cách tập trung vào những vấn đề vụn vặt, liên tiếp phản ứng lại những sáng kiến của đối phương, và chỉ nhắm đến những sinh hoạt ngắn hạn. Đôi lúc người ta cũng không màng đến ngay cả việc thiết lập một kế hoạch nhằm đạt mục đích của mình, bởi vì trong thâm tâm họ không thực sự tin là họ có thể thành công được. Những người này — mặc dù họ có thể đem lại một ấn tượng khác — tự thấy mình yếu kém, là nạn nhân bất lực trước những thế lực quá hùng mạnh. Do đó, họ tin rằng điều tốt nhất họ có thể làm được là khẳng định và làm chứng nhân, ngay cả chịu chết, trong niềm tin là họ đúng. Vì vậy, họ không cố thử suy nghĩ và thiết kế chiến lược làm thế nào để đạt cho kì được những mục tiêu của mình.
Điều này tạo ra hoàn cảnh gọi là niềm tin biến thành sự thật. Nếu mình không tin là mình sẽ thành công, và do đó đã không có những nước bước cố tình làm tăng xác suất thành công, nên thường sẽ thất bại.
Hậu quả của việc thiếu kế hoạch
Trong quá khứ hầu hết các cuộc đấu tranh bất bạo động đều đột khởi, không được chuẩn bị trước. Một vài cuộc xung đột trong số những xung đột này đã vượt quá giới hạn của chúng và đã tạo nên tác dụng vượt quá mức dự phóng nguyên thuỷ của bất cứ ai, để lại những người tham gia không được chuẩn bị cho những gì sắp tới. Đó là trường hợp của cuộc Cách Mạng Nga năm 1905 và cuộc đấu tranh cho dân chủ của người Trung Hoa năm 1989, chẳng hạn. Trong nhiều cuộc xung đột khác trong quá khứ, các nhóm liên can đều thừa nhận là họ cần chuẩn bị phải hành động như thế nào, nhưng họ chỉ làm như thế trên căn bản rất giới hạn, ngắn hạn, và có tính chiến thuật mà thôi. Trong hầu hết mọi trường hợp, những nhóm này không cố gắng thiết lập một kế hoạch đấu tranh rộng lớn hơn, dài hạn hơn, hoặc có tính chiến lược.
Trong lúc tự phát và đột khởi có một vài phẩm chất tích cực, thì đồng thời chúng cũng có những bất lợi trầm trọng. Ví dụ, nếu những người đối kháng giành được những thắng lợi thì thường họ sẽ không biết phải nên làm điều gì tiếp theo. Trong một số xung đột nào đó nếu những người đối kháng không tính trước được một cách đầy đủ sự tàn bạo của đối phương thì họ có thể phải chịu những trở lực nặng nề dẫn đến sự sụp đổ của phong trào. Khi những quyết định trọng yếu được để mặc cho rủi may vì thiếu kế hoạch đầy đủ, thì hậu quả có thể cũng thảm hại như thế.
Kết quả của việc không có kế hoạch như thế là cơ hội thành công trong cuộc đấu tranh bị giảm đi rất nhiều, và đôi khi bị xoá bỏ.
Không thiết lập một kế hoạch hành động chiến lược cẩn thận thì
- Sinh lực con người có thể lệch về phía những vấn đề vụn vặt và được áp dụng một cách vô hiệu lực.
- Người ta có thể thử sử dụng những phương pháp đấu tranh vượt quá khả năng của những người đối kháng do đó họ không thể áp dụng những phương pháp này hữu hiệu được.
- Các sức mạnh của nhóm bất bạo động có thể không được sử dụng.
- Những sáng kiến của đối phương sẽ quyết định tiến trình của các diễn biến.
- Việc không chắc chắn về điều cần phải làm có thể làm cho sự hoang mang lan rộng trong hàng ngũ những người đối kháng.
- Những nhược điểm của chính phe mình sẽ gia tăng và làm mất tinh thần của nhóm, gây nên những hậu quả phương hại đến nỗ lực nhằm tranh thủ mục đích của mình.
Tóm lại, các nguồn sức mạnh của nhóm bị phân tán hay tác dụng của những sức mạnh này bị giảm thiểu. Các hi sinh bị phí phạm và lí tưởng đấu tranh không được phục vụ trọn vẹn.
Những sinh hoạt hỗn độn sẽ không thúc đẩy cuộc đấu tranh tiến tới, ngược lại kết quả sẽ là những hành động rời rạc và không tập trung hoặc, tệ hơn, là sự suy yếu của phong trào. Trái lại, hành động được chỉ đạo theo một kế hoạch sẽ làm người ta có khả năng tập trung các nguồn sức mạnh của mình vào việc tiến theo một hướng đã được quyết định đến mục đích mình mong muốn.
Lập kế hoạch dài hạn cũng quan trọng vì một lí do khác. Ngay cả sau khi mục đích nguyên thuỷ của phong trào đã đạt được, như là việc lật đổ một nền độc tài hay một chế độ áp bức, sự thiếu vắng một kế hoạch làm cách nào để giải quyết vấn đề chuyển tiếp đến một hệ thống tốt đẹp hơn có thể đóng góp vào sự xuất hiện của một chế độ áp bức mới.
Thiết kế chiến lược
Việc thiết kế ngắn hạn, hay chiến thuật từng xảy ra trong những cuộc xung đột trong quá khứ mà trong đó những phương pháp bất bạo động được sử dụng tỏ ra là hữu ích và đã đóng góp vào việc hoàn thành những cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, thiết kế chiến lược dài hạn cho cuộc đấu tranh toàn bộ có thêm những lợi điểm riêng biệt, giúp cho nhóm đấu tranh bất bạo động có thể tính toán những phương cách hữu hiệu nhất để dẹp bỏ áp bức, để thẩm định khi nào là lúc hoàn cảnh chính trị và tâm lí quần chúng đã chín muồi để hành động, và để chọn lựa làm thế nào để khởi động chiến dịch bất bạo động và làm thế nào để phát triển chiến dịch khi chiến dịch đang tiến hành, trong lúc đang đối đầu với đàn áp và những biện pháp phản công khác của đối phương.
Thiết kế chiến lược cũng làm cho nhóm đấu tranh bất bạo động có khả năng trở nên mạnh hơn vì kế hoạch biết được dự tính sẽ tiến đến đâu và vì kế hoạch biết được những khó khăn, những diễn biến, và những phản ứng mà những người đối kháng có thể phải đối đầu.
Mục đích càng quan trọng, hoặc là những hậu quả của thất bại càng trầm trọng, thì việc lập kế hoạch càng trở nên quan yếu. Thiết kế chiến lược gia tăng khả năng những nguồn lực có sẵn sẽ được sử dụng hữu hiệu hơn cả. Điều này đặc biệt quan trọng đối với một phong trào có một mục tiêu cao quý nhưng những tài nguyên vật chất giới hạn và trong phong trào này những người ủng hộ gặp nguy hiểm trong thời gian xung đột. Trái lại, đối phương thường có được những nguồn tài nguyên vật chất lớn lao, sức mạnh tổ chức, và khả năng áp dụng bạo tàn.
Việc sử dụng chiến lược được biết đến nhiều hơn cả trong chiến tranh quân sự. Đã bao thế kỉ nay, những sĩ quan quân đội đã từng dấn thân vào việc thiết kế chiến lược cho những chiến dịch quân sự. Những nhà tư tưởng quan trọng như Tuân Tử, Carl von Clausewitz, và Ngài Basil Liddell Hart đã từng phân tách và tinh lọc chiến lược quân sự quy ước. Mao Trạch Đông và Ernesto “Che” Guevara, trong số những người khác, cũng đã cố làm như vậy đối với chiến tranh du kích. Trong cả chiến tranh quân sự quy ước lẫn trong chiến tranh du kích, sử dụng chiến lược tân kì là yêu cầu cơ bản của thành công.
Cũng như đấu tranh quân sự hữu hiệu đòi hỏi những chiến lược khôn ngoan, lập kế hoạch cho đấu tranh bất bạo động, và thực hiện kế hoạch này sẽ hữu hiệu hơn cả khi cuộc đấu tranh cũng vận hành trên cơ sở thiết kế chiến lược sâu sắc. Tuy nhiên, việc thiết lập và áp dụng chiến lược trong những cuộc đấu tranh bất bạo động tầm cỡ phức tạp hơn là trong những cuộc đấu tranh quân sự. Trong những cuộc đấu tranh bất bạo động lớn, toàn thể dân chúng và nhiều cơ chế tổ chức trong xã hội đều có tiềm năng trở thành người đấu tranh, chứ không đơn giản chỉ là các lực lượng quân đội mà thôi. Để có thể làm cho tất cả những người này và các cơ chế được hữu hiệu nhất, đòi hỏi phải có những chiến lược có khả năng.
Những sức mạnh tuyệt đối và tương đối của đối phương và của nhóm đấu tranh bất bạo động có thể biến đổi rất nhiều và thay đổi nhanh chóng trong thời gian cuộc đấu tranh đang tiến hành. Những hành động và hành vi của nhóm đấu tranh bất bạo động có thể có những hiệu quả bất ngờ, vượt quá thời gian và không gian của những hành động và hành vi này. Những thay đổi về sức mạnh của những nhóm tranh chấp này có thể cực độ trong những cuộc đấu tranh bất bạo động hơn là những thay đổi trong những xung đột bằng vũ lực. Do đó, cần phải hết sức cẩn thận trong việc chọn lựa ngay cả những hành động có giới hạn và trong hành vi của những người đối kháng trong cuộc đấu tranh.
Các cấp chiến lược
Trong khi thiết lập một kế hoạch chiến lược, người ta phải hiểu là có bốn cấp chiến lược2. Đại chiến lược và chiến lược đã được giới thiệu rất ngắn gọn trước đây. Tuy nhiên, ở đây, cần phải khai triển có chiều sâu hơn. Ở cấp căn bản nhất là đại chiến lược. Rồi đến chiến lược, tiếp đến là các chiến thuật và các phương pháp.
Đại chiến lược có thể được gọi là quan niệm chủ đạo cho việc điều hành cuộc đấu tranh. Đó là ý niệm rộng lớn nhất dùng để phối hợp và điều động tất cả những nguồn lực của nhóm đấu tranh đi đến việc đạt những mục tiêu của cuộc đấu tranh.
Chiến lược rất giống đại chiến lược, nhưng được áp dụng cho những giai đoạn có giới hạn hơn của toàn bộ cuộc đấu tranh, như cho những chiến dịch có những mục tiêu nhất định. Chiến lược gồm có việc phác hoạ ra một hoàn cảnh thuận lợi, quyết định khi nào thì chiến đấu, và một mô hình bao quát cho những đụng độ nhỏ hơn trong khuôn khổ chiến lược đã được chấp thuận.
Chiến thuật nói đến những kế hoạch để xúc tiến những giao chiến còn giới hạn hơn nữa trong chiến lược đã được lựa chọn — giới hạn về tầm cỡ, về số người tham gia, về thời gian, hoặc về vấn đề nào đó. Chiến thuật nói đến cách làm thế nào một nhóm có thể áp dụng những phương pháp được nhóm chọn lựa và hành động trong một cuộc đụng độ nào đó với đối phương.
Phương pháp trong đấu tranh bất bạo động là nhiều hình thái hành động cá biệt, như là làm rào cản, tẩy chay xã hội, những cuộc tẩy chay của giới tiêu thụ, những vụ tổng đình công, bất tuân dân sự, biểu-tình-ngồi, và lập chính phủ song hành, như đã liệt kê ở Bài 018 và 034. Trong số những nhân tố cần duyệt xét trong việc tuyển chọn các phương pháp là phương thức tạo thay đổi (cải hoá, thích nghi, cưỡng ép bất bạo động, hoặc phân huỷ), mức độ những người đối kháng kiểm soát được những nguồn sức mạnh của đối phương, và tình huống, các ưu điểm, các nhược điểm, và các nguồn sức mạnh của những người đối kháng.
Nếu bất cứ một cấp nào trong bốn cấp chiến lược này được nhận thức hoặc thiết kế một cách không hoàn chỉnh, hay ngay cả thiếu vắng, thì toàn bộ cuộc đấu tranh bất bạo động sẽ bị suy yếu đi một cách trầm trọng. Không có một kiến thức về toàn cảnh, người ta có thể lơ là trong việc chuẩn bị, hay là không thể thực hiện được, những nước bước đi đến việc tranh thủ các mục tiêu đã đề ra.
Sự chọn lựa đại chiến lược, việc thực thi các chiến lược, chiến thuật và các phương pháp cần sử dụng phải quyết định hướng đi tổng quát và cách điều hành của cuộc đấu tranh suốt tiến trình của cuộc xung đột. Bốn cấp chiến lược này sẽ được bàn đến đầy đủ hơn nhiều trong các bài tới.
Muốn thực thi một chiến lược thì cần phải có những sinh hoạt hỗ trợ cẩn thận. Những sinh hoạt này đòi hỏi phải có thiết kế và nhiều chuẩn bị. Những sinh hoạt này là những công tác hậu cần. Công tác hậu cần bao gồm một loạt những sinh hoạt hỗ trợ chi tiết cần cho việc điều hành của một cuộc đấu tranh, như là sự sắp đặt về tài chánh, chuyên chở, thông tin, và tiếp liệu.
Những thắng lợi do các chiến lược khôn ngoan đem lại
Việc thiết lập và thực thi các chiến lược khôn ngoan nhằm hướng dẫn các hành động của những người đối kháng làm cho họ có khả năng tập trung các sức mạnh và hành động của họ vào mục đích mong muốn, làm trầm trọng thêm những nhược điểm của đối phương, tăng sức mạnh cho những người đối kháng, giảm thiểu tổn thất và những tốn kém khác, và giúp các hi sinh phục vụ mục đích chính yếu.
Để tăng xác suất thành công, những chiến lược gia đấu tranh bất bạo động sẽ cần phải không những chỉ thiết lập một đại chiến lược và các chiến lược cho những chiến dịch cá biệt, mà còn cần phải soạn thảo một kế hoạch hành động chiến lược toàn bộ để áp dụng các chiến lược này trong ý nghĩa cụ thể. Kế hoạch chiến lược sẽ cần phải có khả năng tăng sức mạnh của dân chúng, làm suy yếu và tiếp đến là dẹp tan áp bức, và xây dựng một xã hội tiến bộ hơn. Thiết lập một kế hoạch hành động như thế đòi hỏi một sự thẩm định cẩn trọng về hoàn cảnh và về những lựa chọn cho hành động được hữu hiệu.
Kế hoạch chiến lược phác hoạ những bước cụ thể đã được tiên liệu mà những người đối kháng sẽ thực hiện để thực thi đại chiến lược và những chiến lược cá biệt nhằm tranh thủ những mục tiêu đã được lựa chọn. Kế hoạch chỉ định những công tác cần phải được thi hành ở bốn cấp hạng chiến lược và ai là người chịu trách nhiệm điều hành những công tác này. Những nhân tố trong việc chuẩn bị và chọn lựa đại chiến lược, các chiến lược, chiến thuật, và sự lựa chọn các phương pháp sẽ được bàn đến một cách sâu rộng trong các Bài sau.
Tầm quan trọng của thiết kế chiến lược không thể nói là được đặt nặng quá mức. Đó là chìa khoá làm cho các phong trào xã hội và chính trị đang sử dụng đấu tranh bất bạo động được hữu hiệu hơn.
___________________________________________________________
CƯỚC CHÚ
1 Những nhân tố này được rút ra từ Gene Sharp, Chính Trị của Hành Động Bất Bạo Động [The Politics of Nonviolent Action], tt. 815-817.
2 Những định nghĩa này được Robert Helvey, Bruce Jenkins, và Gene Sharp soạn thảo. Bản Ghi Nhớ Không Phát Hành, Viện Albert Einstein.
0 Comments