Lòng Yêu Nước Như được Phản Ánh qua Văn học Dân Gian
Cụm từ “Yêu Nước” hay “Ái Quốc” được sử dụng khá thường xuyên trong bối cảnh văn hoá Việt. Tuy nhiên, hình như chưa hề có một sự đồng thuận chính thức nào về ý nghĩa của “Yêu Nước” hay “Ái Quốc” là gì. Cuốn Hán-Việt Từ-Điển (1957) của Đào-Duy-Anh định nghĩa “Ái Quốc” là “thương nước, tiếc nước, yêu nước”. Hán-Việt Tự-Điển (1960) của Nguyễn-Văn-Khôn định nghĩa “Ái Quốc” là “yêu nước, thương nước, yêu tổ quốc”.
Cuốn Việt-Nam Tự-Điển (1970) của Lê-Văn-Đức và Lê-Ngọc -Trụ định nghĩa “Ái Quốc” là “yêu nước: lòng ái quốc; ái quốc luôn luôn “ái quần”, và “ái quần” được định nghĩa là “yêu đồng bào, yêu quần chúng”. Định nghĩa này cho rằng “Yêu Nước” mang thêm nội hàm “Yêu Dân”. Định nghĩa của Đào Duy Anh và Nguyễn-Văn-Khôn thực chất chỉ là phiên dịch cụm từ Hán-Việt “Ái Quốc” [愛國] chứ không cắt nghĩa “Ái Quốc” hay “Yêu, Thương Nước” nghĩa là yêu cái gì và chứa đựng những chất liệu cụ thể nào. Lê-Văn-Đức và Lê-Ngọc-Trụ có làm cho ý nghĩa của cụm từ “Ái Quốc” sáng tỏ hơn với định nghĩa “Yêu Nước” luôn luôn mang ý nghĩa “yêu đồng bào, yêu quần chúng”. Sau cùng, theo định nghĩa của Từ Điển Hán Việt Trích Dẫn của Đặng Thế Kiệt (Online, 2011) thì “ái” [愛] có nghĩa là “yêu, thích, mến”; “quốc” [國] có nghĩa là “nước, có đất, có dân, có chủ quyền”. Như vậy, yêu nước hay ái quốc có nghĩa là yêu mến một vùng đất đai có dân chúng cư trú và người dân có quyền làm chủ vùng đất này.
Người Việt Nam thường gọi vùng đất này là quê hương, là quê nhà, là đất nước, là non sông, là non nước, là tổ quốc. Nói cách khác “tổ quốc” hay là vùng đất của cha ông để lại bao gồm thôn làng, đất đai, sông biển, núi non mà ở đó người dân đã cư trú từ lâu và có quyền sở hữu vùng đất này cũng như con người có quyền sở hữu bất cứ phẩm vật nào mà họ đã tạo ra hoặc mua sắm được. Như vậy “ái quốc” hay “yêu nước” có nghĩa là yêu nơi mình sinh trưởng bao gồm làng xóm, ruộng vườn, phố thị, núi non, sông hồ, biển cả thuộc quyền sở hữu của mình. Nhưng tại sao chúng ta lại yêu đất nước của mình mà không yêu một đất nước khác? Văn học có thể chiếu rọi ánh sáng vào những vấn đề then chốt này.
Nói về văn học hàn lâm thì chúng ta không thể không nhớ đến bà huyện Thanh Quan với bài “Qua Đèo Ngang”.
Bước tới Đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú
Lác đác bên sông, chợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con quốc quốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.
Trên đường từ quê quán Tây Hồ, Hà Nội vào kinh thành Huế để nhậm chức “Cung trung Giáo tập” với phần vụ dạy học cho các cung nữ, bà Nguyễn Thị Hinh, vợ của Lưu Nghị từng làm tri huyện Thanh Quan (nay là huyện Thái Thuỵ, tỉnh Thái Bình; do đó, bà được gọi là bà huyện Thanh Quan), khi đi ngang qua đèo Ngang vào một buổi chiều xuống, nhìn thấy phong cảnh đẹp, nhưng buồn đã khơi dậy tình yêu của bà đối với đất nước loạn lạc trong thời Lê mạt Nguyễn sơ.
Trong giới văn học hàn lâm thì không thiếu gì các thi nhân làm thơ mô tả cảnh đẹp của đất nước, nhưng hiếm khi thấy có ai — ngoài bà huyện Thanh Quan — gắn liền quang cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp của quê hương với lòng yêu nước. Nhưng Văn học dân gian qua vô số ca dao và tục ngữ lại cho ta thấy rõ người bình dân thôn dã Việt Nam mô tả non sông, đất nước để thể hiện lòng yêu nước của họ bao gồm cả những lí do tại sao họ yêu nước.
Trước tiên, chỉ nhìn phong cảnh tuyệt đẹp của quê hương cũng đủ làm nao lòng người dân quê và đánh thức lòng yêu nước trong họ. Và yêu quê hương là yêu đất đai, ruộng vườn, sông, núi, biển, hồ của nơi mình sinh trưởng:
Đò từ Đông Ba, đò qua Đập Đá
Đò về Vĩ Dạ, thẳng ngã ba Sình
Là đà bóng ngả trăng chênh
Giọng hò xa vọng, nặng tình nước non.
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ Hương Giang gió mát, nhớ Ngự Bình trăng thanh
Đêm đêm đốt đỉnh hương trầm
Khói lên nghi ngút âm thầm nhớ quê.
Ai đã từng vào Nam ra Bắc
Thấy nhiều nơi cảnh sắc cũng xinh
Đi mô cũng nhớ quê mình
Nhớ sông Hương nước biếc, nhớ non Bình trăng trong
Bãi biển Nha Trang mịn màng, trắng trẻo
Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh
Đêm đêm thơ thẩn một mình
Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây
Ai qua núi Tản, sông Đà
Ghé qua Tu Vũ* mặn mà tình thương.
(* Tên làng, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ)
Và còn rất nhiều những câu ca dao khác mô tả phong cảnh của đất nước, nhưng ở đây chỉ xin trích dẫn một số ít câu tiêu biểu mà thôi, và mặc dù những câu ca dao này không trực tiếp gắn kết phong cảnh với lòng yêu nước, nhưng cách thức mô tả cho chúng ta thấy là người dân thôn dã rất yêu đất nước bởi vì khi yêu, người ta không khẩn thiết phải nói thẳng là mình yêu mà chỉ cần bày tỏ ra sự ngưỡng mộ của mình đối với đối tượng là đủ:
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Đường ra Hà Nội như tranh vẽ rồng
Đường vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Ai vô xứ Nghệ thì vô.
Làng tôi có luỹ tre xanh
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải, nhãn hai hàng
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Sông Tô nước chảy trong ngần
Có thuyền buồm trắng, chạy gần chạy xa
Thon thon hai mũi chèo hoa
Lướt đi lướt lại như là bướm gieo
Quê em có dải sông Hàn
Có chùa Non Nước, có hang Sơn Trà
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương
Mịt mù khói tỏa ngàn sương
Lắng nghe tâm sự đôi đường đắng cay
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói toả ngàn sương
Nhịp chày Yên Thái, Mặt gương Tây Hồ
Hải Phòng là chốn hữu tình
Thuyền buôn, thuyền bán rập rình bờ sông.
Hà Nội ba sáu phố phường
Hàng Mật, Hàng Đường, Hàng Muối trắng xoa
Thứ nhất là hội Hàng Hoa
Thứ nhì Hàng Mã, thứ ba Hàng Vàng.
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Hài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giầy
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Ngang
Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng
Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông
Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè
Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà
Quanh đi đến phố Hàng Da
Trải xem phường phố thật là cũng xinh
Phồn hoa thứ nhất Long thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ.
Phồn hoa thứ nhất Long thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.
Ngoài ra, tình yêu đất nước như được thể hiện qua người dân thôn dã còn có lí do rõ ràng: Yêu đất nước vì những đặc sản của quê hương.
Nón ngựa gò Găng
Bún Song thằn An Thái
Lụa đậu tư An Ngãi
Xoài tượng chín Hưng Long
Mặc ai mơ táo, ước hồng
Tình quê em giữ một lòng trước sau.
Cần Thơ gạo trắng, nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về
Anh đi, anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng, dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao!
Chẳng đi nhớ cháo Dốc Ghề
Nhớ cơm phố Mía, nhớ chè Đông Viên
Cách sông, cách nước thì thương
Cách quê, cách quán nhớ tương Cự Đà
Khánh Hoà biển rộng, non cao
Trầm hương Vạn Giã, yến sào Nha Trang
Đi đâu vẫn nhớ Khánh Hoà
Nhớ biển Nha Trang gió mát
Nhớ Ninh Hoà nhiều nem.
Đi đâu cũng nhớ Thu Xà*
Nhớ mùi cá bống mặn mà hương tiêu
(* Thu Xà thuộc huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi)
Chim mía Ba La
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Thi Phổ
(Những địa danh thuộc tỉnh Quảng Ngãi)
Quảng Nam nổi tiếng lòn bon*
Chả viên Bình Định vừa ngon, vừa lành
Chín muồi da vẫn tươi xanh
Mùi thêm cơm nếp, vị thanh đường phèn.
(* Trái cây rừng tròn, ngọt, thanh, xưa được gọi là “Nam Trân”, dùng để tiến vua)
Đá than thì ở Nông Sơn
Bồng Miêu vàng bạc, Quế Sơn có chè
Thanh Châu buôn bán nghề ghe
Thanh Hà vôi ngói, Mía che Đa Hoà
Phú bông dệt lụa, dệt sa
Kim Bồng thợ mộc, Ô Gia thợ rừng
Ngà voi, tê giác, gỗ rừng
Trân châu, hải vị chẳng từng thiếu chi.
(Các địa danh thuộc Quảng Nam)
Biên Hoà có bưởi thanh trà
Thủ Đức nem nướng, điện Bà Tây Ninh
Vải ngon thì nhất làng Bằng
Khắp thành Hà Nội hỏi rằng đâu hơn?
Củ đậu Bằng Thượng thiếu gì
Dưa hấu Bằng Hạ đâu bì được chăng?
Nhớ ngày mồng Bảy tháng Ba
Trở vào hội Láng, trở ra hội Thầy
Hội chùa Thầy có hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ, nhớ hội chùa Thầy
Gái chưa chồng, nhớ ngày mà đi.
Hồ Tĩnh Tâm giàu sen bách diệp
Đất Hương Cần ngọt quýt thơm cam
Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Đợi đây về với một đoàn cho vui
Người dân thôn dã còn yêu quê hương vì quê hương mang dấu ấn của kỉ niệm thuở thiếu thời, vì tính chất của thổ ngơi phù hợp với cuộc sống, vì những sinh hoạt đặc thù của địa phương, và vì di tích của lịch sử văn hoá dân tộc.
Làng tôi nhỏ bé xinh xinh
Chung quanh có luỹ tre xanh rờm rà
Trong làng san sát nóc nhà
Đình làng lợp ngói có và cây cau
Chùa làng rêu phủ mái nâu
Dân làng thờ cúng để cầu bình an
Chợ làng có quán năm gian
Ngày phiên thiên hạ buôn hàng rất đông
Giếng làng có mạch nước trong
Có cây đa mát bóng vùng rất xa
Trường làng rộng rãi bao la
Chúng tôi đi học trường nhà rất vui.
Ở đâu làm được vải con?
Ở đâu gánh đất nặn nên cái nồi?
Ở đâu gánh đá nung vôi?
Ở đâu nấu rượu cho người ta mua?
Ở đâu không miếu không chùa?
Ở đâu tế lễ rước vua về thờ?
Ở đâu lắm kiệu lắm cờ?
Ở đâu lại có đền thờ Bà Vua?
Ở đâu có dãy núi Nưa?
Ở đâu mà lại có chùa lắm tiên?
Ở đâu làm được mực đen?
Ở đâu tháng Tám có đèn kéo quân?
-Làng Bút1 làm được vải con
Thổ Oa2 gánh đất nặn nên cái nồi
Làng Nhồi3 gánh đá nung vôi
Làng Vạn4 nấu rượu cho người ta mua
Vân Nhưng5 lắm kiệu lắm cờ
Tống Sơn6 lại có đền thờ Bà Vua
Nông Cống7 có dãy núi Nưa
Chùa Sõi8 là chùa có lắm cô tiên
Bên Tàu làm được mực đen
An Nam tháng Tám có đèn kéo quân.
(1,2,3,4,5,6,7,8 Địa danh làng, xã, huyện thuộc tỉnh Thanh Hoá)
Ở đâu lắm đá anh ơi?
Ở đâu lắm nước anh thời biết không?
Ở đâu mà lại lắm sông?
Ở đâu mà lại lắm ông lão già?
Ở đâu chỉ có toàn da?
Ở đâu chỉ có những là xương hom?
Ở đâu núi lắm cùng non?
Ở đâu mà lắm lá còn đương tơ?
Ở đâu mà lắm ông đồ?
Ở đâu hoá phép từ xưa rất tài?
-Huyện Thạch1 lắm đá mình ơi
Huyện Thuỷ2 lắm nước mình thời biết không!
Phủ Hà3 là chỗ lắm sông
Phủ Thọ4 là đất lắm ông lão già
Phủ Tĩnh5 chỉ thấy toàn da
Huyện Quảng6 chỉ có những là xương hom
Đông7, Nga8 lắm núi cùng non
Vĩnh9, Hậu10 mà lắm lá còn đương tơ
Nông Cống11 mà lắm ông đồ
Thiệu12, Hoàng13 hoá phép từ xưa rất tài.
(1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13 Những địa danh thuộc tỉnh Thanh Hoá: [Thạch là đá; Thuỷ là nước; Hà là sông; Thọ là sống lâu; Tĩnh là huyện Gia Tĩnh, Gia và da đọc giống nhau; Quảng là huyện Quảng Xương, tên Xương được dùng như xương; Đông, Nga là Đông Sơn và Nga Sơn, sơn là núi; Vĩnh là huyện Vĩnh Lộc, Hậu là huyện Hậu Lộc, lộc: lá non; Nông Cống là huyện Nông Cống, từ “cống” được dùng trong bối cảnh ông cống, ông nghè, những danh tước mấy ông đồ đạt được khi thi đỗ; Thiệu là huyện Thiệu Hoá, Hoàng là huyện Hoàng Hoá, từ “Hoá” được sử dụng trong nghĩa biến hoá.]
-Ở đâu năm cửa nàng ơi
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng?
Sông nào bên đục bên trong
Núi nào thắt cổ bồng1 mà có Thánh sinh?
Đền nào thiêng nhất xứ Thanh
Ở đâu lại có cái thành Tiên xây?
Ở đâu là chín tầng mây?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng?
Chùa nào mà lại ở hang
Ở đâu lắm gỗ, thời nàng biết không?
Ai mà xin lấy túi đồng
Ở đâu mà lại có con sông Ngân Hà?
Nước nào dệt gấm thêu hoa
Ai mà sinh ra cửa nhà, nàng ôi?
Kìa ai đội đá vá trời
Kìa ai trị thuỷ cho đời được yên?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Xin em giảng rõ từng nơi từng người.
(1 thắt eo ở giữa)
_Thành Hà Nội năm cửa, chàng ôi
Sông Lục Đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục bên trong
Núi đức Thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có Thánh sinh
Đền Sòng thiêng nhất xứ Thanh
Ở trên tỉnh Lạng có thành Tiên xây
Trên trời là chín tầng mây
Dưới sông lắm nước, núi hay lắm vàng
Chùa Hương Tích mà lại có hang
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không?
Ông Nguyễn Minh Không2 xin được túi đồng
Trên trời lại có con sông Ngân Hà
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa
Ông Hữu Sào3 sinh ra cửa nhà chàng ôi!
Bà Nữ Oa4 đội đá vá trời
Vua Đại Vũ5 trị thuỷ cho đời yên vui
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời
Em xin giảng rõ từng nơi từng người.
(2,3,4,5 Những nhân vật huyền thoại Trung Hoa nhưng rất quen thuộc và phổ biến trong văn hoá Việt Nam)
Và quan trọng hơn cả, người dân yêu đất nước vì đất đai là nguồn mạch sống của họ. Sự sống của người dân thôn dã dựa trên nông sản, nhất là lúa gạo. Do đó, sở hữu đất đai là điều kiện cần để họ tồn tại.
Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì bừa sâu
Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng
Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất, tấc vàng bấy nhiêu.
Tấc đất, tấc vàng
Ai ơi! Sao chẳng đi về
Ruộng ta, ta để cấy thuê sao đành
Tổ tiên di sản để dành
Ta không nhìn nhở, vô tình thế chi.
Đúng vậy, có được đất này là do “Tổ tiên di sản để dành”. Người dân thôn dã yêu đất nước vì đất nước đã được tổ tiên anh hùng tạo nên và bảo toàn cho hậu thế. Chứng tỏ lòng biết ơn, quý trọng các vị tiền nhân dựng nước là dấu ấn hùng hồn của lòng yêu nước.
Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giỗ Tổ tháng Ba mùng Mười
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng Mười tháng Ba.
Đu tiên mới dựng năm nay
Cô nào hay hát, kì này hát lên
Tháng Ba nô nức hội đền
Nhớ ngày giỗ Tổ bốn nghìn năm nay
Dạo xem phong cảnh trời mây
Lô, Đà, Tam Đảo cũng quay đầu về
Khắp nơi con cháu ba kì
Kẻ đi cầu phúc, người đi cầu tài
Sở cầu như ý ai ai
Xin rằng nhớ lấy mồng Mười tháng Ba.
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
Cổ Loa hình thức khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.
Cổ Loa là đất đế kinh
Trông ra lại thấy toà thành tiên xây
Cổ Loa thành ốc khác thường
Trải bao năm tháng nẻo đường còn đây.
Thăng Long, Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh hoạ đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây.
Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem chùa Thê Húc, Xem đền Ngọc Sơn
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Hỏi ai xây dựng nên non nước này
Ai ơi nghĩ lại cho mình
Giang sơn nghìn dặm công trình biết bao!
Người bình dân thôn dã yêu đất nước vì phong cảnh Việt Nam hữu tình, vì các đặc sản vùng miền, vì quê hương mang dấu ấn của những kỉ niệm tuổi thơ, vì thổ nhưỡng thích hợp với cuộc sống, vì những sinh hoạt đặc thù của từng địa phương, vì lịch sử văn hoá của nòi giống. Đặc biệt nhất là đất đai của quê hương là nguồn mạch sống của người dân; người dân chủ yếu sống bằng ruộng lúa cho nên sở hữu đất đai là điều kiện khẩn thiết cho cuộc sinh tồn và đất đai có được là do công lao của tiền nhân anh hùng tranh đấu để sở hữu và bảo tồn cho con cháu. Do đó, dù đất nước khác có đẹp, có giàu, có văn minh hơn thì cũng không thể nào sánh bằng được đất nước Việt Nam đối với người việt Nam:
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong, dù đục, ao nhà vẫn hơn.
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong, dù đục, ao nhà đã quen
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong, dù đục, nước nhà cho xong.
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong, dù đục, nước nhà còn hơn
Trâu ta ăn cỏ đồng ta
Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm
Khi đã yêu, dù là yêu một người, yêu một đồ vật, hay yêu tổ quốc, không ai có thể chịu để mất đi đối tượng yêu đương của mình. Và nếu có ai đó cố tình chiếm đoạt đối tượng yêu đương thì luôn luôn có người đứng lên tranh đấu, bằng mọi cách, để giành lại đối tượng đã mất. Trong những cuộc xung đột ngắn hạn với Chiêm Thành, Cao Mên, và Xiêm La, tổ quốc Việt Nam chưa bao giờ bị chiếm đóng. Nhưng suốt dọc dài lịch sử hơn một ngàn năm quan hệ ngoại giao với Tàu, tổ quốc đã bị người Tàu xâm chiếm và đô hộ đến ba lần trong những khoảng thời gian rất dài, kể từ năm 202 TCN cho đến ngày độc lập với chiến thắng Bạch Đằng (938 CN) oanh liệt của Ngô Quyền. Sau đó, dù có được gần 5 thế kỉ độc lập (938-1407), nhưng đến thế kỉ 15, nhà Minh lại xâm chiếm và đô hộ tổ quốc thêm một thời gian 20 năm nữa (1407-1427) cho đến khi Lê Lợi giải phóng đất nước vào năm 1427. Xuyên suốt những thời gian bị đô hộ này, luôn luôn có những anh hùng Việt tộc đứng lên đấu tranh chống Tàu, giành lại tổ quốc: Nào là hai bà Trưng khởi nghĩa vào năm 40 tại Mê Linh (thuộc Ba Vì Tam Đảo) đánh đuổi quân Đông Hán; bà Triệu cùng anh là Triệu Quốc Đạt bắt đầu lập căn cứ khởi nghĩa năm 248 tại núi Ngàn Nưa và sau đó là tại Bồ Điền (nay là Phù Điền), Thanh Hoá chống lại nhà Ngô; năm 541 Lý Bí còn được gọi là Lý Bôn đứng lên chống lại sự hà khắc của Thứ sử Tiêu Tư của nhà Lương và tái chiếm Bắc bộ, xưng vương là Lý Nam Đế, vị vua đầu tiên của nước Việt, đặt tên nước là Vạn Xuân; năm 687 Lý Tự Tiên và Đinh Kiến khởi nghĩa chống lại sự đô hộ hà khắc của nhà Đường; cũng chống lại sự đô hộ bóc lột của nhà Đường, Mai Thúc Loan (Mai Hắc Đế), quê quán Hà Tĩnh, năm 713 nổi dậy chống lại quan quân nhà Đường cai trị khắc nghiệt, tự xưng vua, và lập kinh đô ở thành Vạn An, Nam Đàn, trị vì được 10 năm; Phùng Hưng, quê quán thuộc thôn Cam Lâm, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, năm 791 đứng lên chống lại nhà Đường, chiếm lại thành Đại La (Hà Nội) từ tay Cao Chính Bình, tướng của nhà Đường, rồi lo xây cất và trùng tu đất nước, và mất sau đó 7 năm, được dân chúng yêu mến và suy tôn là Bố Cái Đại Vương; Dương Thanh, quê quán đất Giao Châu, năm 819 chống lại nhà Đường, bắt giết quan đô hộ Lý tượng Cổ; Ngô Quyền khởi nghĩa đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng năm 938 và lên ngôi vua năm 939, định đô ở Cổ Loa. Đất nước được độc lập gần 5 thế kỉ thì đến thế kỉ 15, nhà Minh lại xâm chiếm và đô hộ tổ quốc rất hà khắc trong vòng 20 năm nên Lê Lợi và Lê Lai trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước.
Rồi đến thời kì Pháp thuộc gần 90 năm (1858-1945), đứng lên chống lại sự chiếm đóng, đô hộ đàn áp và bóc lột khắc nghiệt của người Pháp có phong trào Cần Vương (1885-1896) do các quan lại của triều đình như Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn, Đề đốc Lê Trực, Tri phủ Nguyễn Phạm Tuân và tầng lớp sĩ phu khác tổ chức như Trần Quang Dự, Nguyễn Hàm ở Quảng Nam; Lê Trung Đình ở Quảng Ngãi; Mai Xuân Thưởng ở Bình Định. Bắc Kì thì có Tạ Hiện khởi nghĩa ở Thái Bình và Nam Định; Nguyễn Thiện Thuật ở Bãi Sậy, Hải Dương; Phạm Bành, Đinh Công Tráng ở Nga Sơn, Ba Đình, Thanh Hoá; Lê Ninh, Phan Đình Phùng ở Hương Khê, Hà Tĩnh (Theo Bùi Tuấn An và Luật sư Lê Minh Trường, “Tính chất của Phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp là gì?”: https://luatminhkhue.vn/tinh-chat-cua-phong-trao-can-vuong-la-gi.aspx). Ngoài ra, còn có rất nhiều những cuộc khởi nghĩa chống Pháp, Nhật. Ở đây, chỉ xin đơn cử một số tiêu biểu như khởi nghĩa của Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Võ Duy Dương, Nguyễn Hữu Huân; khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám; khởi nghĩa Hưng Hoá của Nguyễn Quang Bích; khởi nghĩa Yên Bái của Nguyễn Thái Học (Việt Nam Quốc Dân Đảng); phong trào Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh; và phong trào kháng chiến của Việt Minh (Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội), và của Việt Cách (Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội). Không biết bao nhiêu là anh hùng đã bày tỏ lòng yêu nước và đã hi sinh vì tổ quốc trong quyết tâm giành lại độc lập và chủ quyền cho đất nước.
Trên đây là tên những anh hùng và phong trào lãnh đạo những cuộc nổi dậy chống Tàu và Pháp, Nhật đã xâm chiếm làng xã, đất đai, sông núi Việt Nam. Nhưng còn nhân dân thì sao? Thái độ của họ như thế nào đối với tình trạng đất nước bị xâm lăng; đối với những đàn áp và bóc lột của ngoại nhân; đối với những kẻ phản bội, quỳ luỵ, phục tòng Tàu, Tây để được hưởng vinh hoa, phú quý trước sự đau khổ của đồng bào; đối với những anh hùng cứu nước; và đối với chính bản thân họ?
(Ca dao và tục ngữ, mạch sống văn hoá thường ngày của người dân thôn dã, sẽ chiếu rọi ánh sáng vào những câu hỏi này trong bài tiếp theo).
Tiểu Thạch Nguyễn văn Thái, Ph.D.
North Wales, Pennsylvania
Ngày 9 Tháng 5 Năm 2023
0 Comments