Lòng Yêu Nước Như Được Phản Ánh qua Văn học Dân gian
Bài II
Trong bài trước chúng tôi đã nêu lên danh tính các anh hùng và phong trào lãnh đạo những cuộc nổi dậy chống Tàu, Pháp, Nhật xâm lược. Chúng tôi cũng đặt những câu hỏi: Còn nhân dân thì sao? Thái độ của họ như thế nào đối với tình trạng đất nước bị xâm lăng; đối với những đàn áp và bóc lột của ngoại bang; đối với những kẻ phản bội, quỳ luỵ, phục tòng Tàu, Tây, Nhật để được hưởng vinh hoa, phú quý trước sự đau khổ của đồng bào; đối với những anh hùng cứu nước; và đối với chính bản thân họ?
Tổ quốc Việt Nam bị xâm chiếm và đô hộ qua hai giai đoạn chính. Giai đoạn I, từ 202 TCN đến năm 1427 CN: Ở giai đoạn này, Tàu đã bốn lần xâm chiếm và thống trị đất nước bằng những chính sách rất hà khắc nên đã có rất nhiều anh hùng Việt tộc đứng lên đấu tranh, quyết tâm giành lại tổ quốc. Giai đoạn II, từ 1858 đến 1945 là giai đoạn Pháp cai trị Việt Nam bằng những chính sách đàn áp và bóc lột; đặc biệt là từ 1940 đến 1945, còn có người Nhật cùng với người Pháp đồng thời đô hộ áp bức dân ta và do đó, đã gây bất mãn khiến rất nhiều người từ vua quan triều đình nhà Nguyễn cho đến những anh hùng nhân dân tổ chức những cuộc khởi nghĩa chống thực dân. Điều cần lưu ý là trong lịch sử đấu tranh chống áp bức trên toàn thế giới, những cuộc khởi nghĩa bao giờ cũng được lãnh đạo bởi tầng lớp sĩ phu, trung lưu. Lịch sử Việt Nam cũng không khác, như đã được trình bày trong bài trước. Tuy nhiên, lãnh đạo phải có nhân dân. Không có nhân dân thì không có lãnh đạo. Do đó, vai trò tham dự của nhân dân là điều kiện “cần” cho sự thành công của bất cứ cuộc cách mạng nào. Nhưng những yếu tố nào đã quyết định sự tham dự của người dân? Để thông suốt vấn đề này, chúng ta cần tìm hiểu những tình cảm cũng như suy nghĩ của người dân đối với sự thống trị và ách nô lệ. Chúng ta cần tìm hiểu chính sách đô hộ của người Tàu, người Pháp, và người Nhật ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân như thế nào cũng như cần tìm hiểu thái độ và phản ứng của họ đối với sự xâm lược và áp bức này.
Trước tiên, lịch sử đất nước mang dấu ấn của nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại sự đô hộ hà khắc của người Tàu. Tuy nhiên sự suy nghĩ chân chất của người bình dân thôn dã thoạt tiên là vua quan lo sợ và chịu khuất phục người Tàu, nên — trong tình trạng yếu thế và bất lực của người dân bị trị “thấp cổ bé miệng” — họ chỉ mong ước tổ quốc có người hiền tài đứng lên cứu nước, nghĩa là họ không muốn phần đất cha ông của họ để lại bị người khác cướp đi.
Thanh thuỷ thanh biền
Ở bên Bắc quốc nó liền kéo sang
Chẳng qua cái ách nước Nam
Khi xưa ai biết việc quan bên Tàu
Nó sang tống củi tống dầu
Bắt lính quan sứ đi hầu song loan
Làm vua thì phải luỵ quan
Làm quan thì phải luỵ đàn trắng răng
Sợ người chẳng dám nói năng
Ngôn ngữ bất đồng tiếng nói chí chô
Hiệu kèn nó thổi vò ve
Nước Nam có Thánh để cho thiên hạ bình.
Nhưng khi có những vị anh hùng cứu nước xuất hiện thì họ ca tụng, vinh danh, suy tôn, sùng bái, và tỏ lòng biết ơn những người này, có khi bằng những huyền thoại dành cho các bậc thánh nhân.
Nhớ xưa đương buổi triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo máng nảy ra kì tài
Lên ba đang tuổi anh tài
Roi ngựa sắt ra oai trận tiền
Một phen khói lửa dẹp yên
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời.
Nhớ đời thứ sáu Hùng Vương
Ân sai hăm tám tướng cường nữ Nhung*
Xâm cương cậy thế khoe hùng
Kéo sang đóng chặt một thành Vũ Ninh
Trời cho thánh tướng giáng sinh
Giáng về Phù Đổng ẩn mình ai hay
Mới lên ba tuổi thơ ngây
Thấy vua cầu tướng, ngày rày ra quân
Gọi sứ phán bảo ân cần
Gươm vàng, ngựa sắt, đề binh tức thì
Thánh Vương khi ấy ra uy
Nửa ngày sấm sét tứ bề giặc tan.
( *Tộc Nhung ở bên Tàu trong thời đại này còn thuộc mẫu hệ)
Giáo gươm cờ quạt tưng bừng
Nhác trông uy vũ tưởng chừng năm xưa
Anh hùng trí dũng có thừa
Sử vàng bia đá bây giờ là đây
Non xanh nước biếc sánh tày
Danh thơm Phù Đổng xưa nay tiếng truyền.
Giáo gươm cờ xí trùng trùng
Hằng năm mở hội tưng bừng vui thay
Nhớ xưa thánh Gióng tích rày
Uy phong rạng rỡ, đến nay còn truyền.
Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà quản tượng cỡi voi bành vàng
Có bà Triệu tướng
Vâng mệnh trời ra
Trị voi một ngà
Dựng cờ mở nước
Lệnh truyền sau trước
Theo gót bà vương.
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi
Muốn coi, lên núi mà coi
Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng
Ai về Hậu Lộc, Phú Điền
Nhớ đây bà Triệu trận tiền xung phong
Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé xem phong cảnh Loa thành Thục vương.
Sa Nam trên chợ, dưới đò
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dựng binh
Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra.
Ai lên Biện Thượng, Lam Sơn
Nhớ Lê Thái Tổ chận đường quân Minh
Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Con bế, con dắt, con bồng, con mang
Bần Gie đốm đậu sáng ngời
Rạch Gầm soi dấu muôn đời oai danh.
(Thuỷ chiến của Nguyễn Huệ đánh tan 5 vạn quân Xiêm)
An Khê nổi tiếng Hòn Bình
Ngày xưa Nguyễn Huệ ẩn binh chốn này
Đống Đa ghi để lại đây
Bên kia Thanh Miếu, bền này Bộc Am.
Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già
Kẻ Dầu có quán Đình Thanh
Kẻ Hạc, ta có Ba Đình, Ba Voi.
Thùng thùng đánh trống quân sang
Chợ Già1 trước mặt, quán Nam2 bên đàng
Qua Chiêng3 thì rẽ sang Giàng
Qua quán Đông Thổ4 vào làng Đình Hương5
Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già.
(1,2,3,4,5 Những địa danh thuộc tỉnh Thanh Hoá)
Đối với người Pháp và chính sách cai trị ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống gia đình của người bình dân thôn dã thì họ đã bày tỏ những cảm xúc và suy nghĩ rất rõ ràng.
Bắt đầu là cảm xúc bất mãn đưa đến ý thức chống đối chính sách mộ lính của người Pháp. Suốt thời gian đánh Đức trong Thế chiến II, người Pháp đã mộ lính Việt, đa phần là để đưa qua Pháp đánh Đức, và một phần lưu lại trong quân đội Pháp để chận đứng các cuộc khởi nghĩa. Người dân Việt, nhất là các bà mẹ, bà vợ hết sức căm phẫn vì phải xa con, xa chồng, không có ai chăm sóc mẹ già và đàn con nhỏ trong lúc chồng, con phải đi đánh giặc ở một nước xa xôi và có lúc phải chết thay cho kẻ xâm lược.
Tây bang anh đi lính
Sao anh không tính việc nhà
Phần thì cha yếu mẹ già
Con thơ vợ dại biết là cậy ai?
Ơn cúc dục, sao anh bội bạc
Nghĩa vợ chồng, anh để dở dang
Anh đòi đi lính Tây bang
Em e anh bỏ mạng bãi hoang đất người
Tình chồng vợ anh không tưởng tới
Nghĩa sinh thành anh chẳng kể chi!
Sao anh bất thức bất tri
Anh đi lính mộ, được gì đâu na?
Anh nghe em hỏi đây mà
Ai sinh ai đẻ anh ra thành người?
Sao anh không sợ người cười
Cái nòi lính mộ, mấy đời sướng thân
Hỏi anh, anh phải phân trần
Cha già mẹ yếu, đỡ đần cậy ai?
Em đã tỏ hết lời năn nỉ
Nhưng anh nào có nghĩ gì đâu
Lính Tây bang khổ mạt đời
Đêm nằm không ngủ, ngày ngồi không yên
Anh ơi! Nghe lấy lời khuyên
Ở nhà có thiếp sớm chuyên đỡ đần.
Chim bay về mỏm Sơn Trà
Chàng đi lính mộ xa đà quá xa
Sự này bởi tại Lang Sa
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng
Mù u ba thứ mù u,
Lính ta thì tình nguyện chớ lính thù ta chẳng đi.
Một ngày một cân gạo kho
Một xu cá ót, sao no cả ngày!
Con nhà ai nho nhỏ to gan
Thấy người ta đi lính mộ, xuống Hàn kí tên
Về nhà con khóc, vợ rên
Hương trên, xã dưới bốn bên xì xào.
Tham chi đồng bạc của Tây
Mà đi lính mộ bỏ bầy con thơ
Câu dưỡng nhi chờ khi đại lão
Thân anh lớn, vóc anh tròn
Cù lao dưỡng dục, anh còn nhớ không?
Vọng phu hoá đá chờ chồng
Sao anh chưa thấy dải đồng phu thê
Phiên bang nhiều kẻ chán chê
Tới đây bỏ mạng có về được đâu
Khuyên anh suy nghĩ cho sâu
Đừng thèm đi lính bỏ đầu bên Tây.
Tây bang đi lính khó về
Ngày xưa em có nói, anh chẳng nghe nên luỵ mình.
Tiếng anh người có học
Sao anh chẳng nghĩ suy
Tây bang đi lính làm chi
Xa cha, lìa mẹ, còn gì chữ ân
Anh ơi! Nghe mấy lời phân
Anh đừng đi lính bỏ thân xứ người.
Đời mạt kiếp, sao anh không thấy
Phỉnh phờ anh, nó nói giàu sang
Xui anh vào lính Tây bang
Để cho chúng nó ngủ an trên lầu
Anh ơi phú quý về đâu
Thân mình khổ cực, bù đầu tóc xơ
Anh mau về lúc bây giờ
Ở nhà, cha đợi, mẹ chờ, em trông.
Nước sông Hàn đời mô cho hết mặn
Rừng Sơn Trà ai đốn cho hết cây
Lời nguyền anh em đó đây
Biểu anh đừng đi lính cho Tây, em phiền.
Con tôi trẻ dại thơ ngây
Phải năm lính mộ ông Tây bắt liền
Con đi mẹ những lo phiền
Lòng con lại thích lấy tiền ông Tây!
Con ơi, đói đi ăn mày
Mật kia có ngọt, ruồi rày chớ ham
Tấm thân giá trọng ngàn vàng
Dẫu rằng chết đói quê làng vẫn hơn.
Chính sách bóc lột thứ hai của người Pháp là chiếm đất để lập đồn điền cao su. Để có cao su sử dụng vào kỉ nghệ, nhất là kỉ nghệ làm bánh xe hơi, người Pháp đã lập nên các đồn điền cao su ở những nơi rừng thiêng, nước độc, rồi mộ phu trồng cây và lấy mủ cao su, thu lợi nhuận thương mại lớn lao. Những phu mộ thì phải đi xa nhà, sống tại các đồn điền trong những hoàn cảnh kinh tế rất ngặt nghèo, lương phạn chẳng bao nhiêu, thiếu dinh dưỡng, vệ sinh, lại còn phải chịu đựng sự đàn áp cay nghiệt của các tên cai đồn điền, tay sai của thực dân. Nhiều phu mộ trở nên bịnh hoạn, bủng beo, và thường hay chết tại các đồn điền. Người dân cảm thấy cay đắng và căm hận sự bóc lột này của người Pháp.
Hàng vạn người chết vì Tây
Sao đây chỉ thấy rừng cây mịt mù
Thịt rơi dưới gốc cao su
Mồ hôi, nước mắt mập ù thằng Tây.
Cao su đi dễ, khó về
Khi đi mất vợ, khi về mất con
Cao su đi dễ, khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo
Lỡ lầm vào đất cao su
Chẳng tù thì cũng như tù chung thân
Sáng ngày vác cuốc trèo non
Tối về mới biết mình còn sống đây
Nhà thương vô có ra không
Chị đi kiếm chồng, ra bãi tha ma.
Ai đi Uông Bí, Vàng Danh
Má hồng để lại, má xanh đem về
Bán thân để mấy đồng xu
Thịt xương vùi gốc cao su mấy tầng.
Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân
Cây cao su quý hơn người
Mỗi khi cây bệnh, cây thời nghỉ ngay
Lang ta cho chí Lang Tây
Đêm đêm lo lắng, ngày ngày chăm nom
Còn ta đau yếu gầy mòn
Đau không được nghỉ; chết, hòm cũng không.
Chính sách khai thác than đá đàn áp và bóc lột của người Pháp — bắt phu làm lụng nhiều giờ vất vả, bẩn thỉu, không có điều kiện vệ sinh thích hợp, với những đồng lương bèo bọt, còn bị đánh đập, cưỡng hiếp tàn nhẫn — đã gây phẫn uất trong giới lao động. Công nhân lao động không có một bảo đảm quyền lợi nào về phương diện an toàn, sức khoẻ, thời gian làm việc, cũng như lương bổng.
Than nhiều hơn cả cỏ cây
Đào ra than cũng tay này chứ ai!
Thế mà cả gái trai già trẻ
Đều còng lưng làm nghé, làm trâu
Đào than cho nó làm giàu
Xúc vàng đem đổ xuống tàu cho Tây
Cái thằng Tây nó ác quá
Nó đánh, nó đá, nó cưỡng hiếp, chửi mắng lôi thôi
Trở về nương rẫy đi thôi
Làm than khổ lắm, đấm buồi làm than.
Đau đẻ cũng phải xúc than
Đẻ rơi cũng mặc, kêu van cũng lờ.
Thuyền than mà đậu bến than
Thương anh vất vả, cơ hàn, nắng mưa
Thuyền nan đậu bến đen sì
Anh không ra mỏ, lấy gì em ăn?
Cầm hơi miếng bánh đúc vôi
Rét run lấy mảnh bao gai che mình.
Độc ác nhất là chính sách thu mua lúa gạo của người Pháp vào những năm 40, thời Đại Chiến II, tất cả lúa gạo đều bị người Pháp thu mua với giá rẻ mạt, một phần để dự trữ cho chiến tranh, một phần khác để nộp cho người Nhật đang trú đóng tại Việt Nam. Chính sách này đã gây nên nạn đói năm Ất Dậu (1945) gây chết chóc cho trên 2 triệu người Việt. Những câu ca dao sau đây là bằng chứng cho sự căm phẫn của nông dân:
Thóc đâu mà nộp cho Tây
Nó ăn nó béo, nó đầy đoạ ta
Hỡi này các bạn nông gia!
Bảo nhau đừng nộp thóc ta cho thù.
Tỉnh Thái Bình dân lành ruộng tốt
Bao năm trời đau xót vì Tây
Ruộng khô mất cả trâu cày
Nhân dân trằn trọc suốt ngày suốt đêm
Được hạt thóc chiêm, nó đem ngâm nước
Được bông lúa mùa, nó đốt thành than.
Mấy năm thóc cạn vì ai
Làm dân ta chết hơn hai triệu người
Ta thì khóc, nó thì cười
Tàu cười, Tây khóc, Nhật no
Việt Nam hết gạo, chết co đầy đường.
Nguyên nhân Tây mua thu lúa gạo một phần cũng là do người Nhật ép chính quyền Pháp đóng góp cho Nhật nuôi quân. Người Nhật còn bắt nông dân nhổ bỏ lúa đã trồng, phá huỷ những nông sản khác như khoai, ngô, sắn, rau, củ chỉ để trồng đay cho người Nhật làm bao tải đựng cát dùng vào việc xây dựng các công sự phòng thủ chống lại sự tấn công của các lực lượng Đồng minh. Lúa gạo đã bị thu mua hết với giá rẻ, người dân lại bị bắt buộc chỉ được trồng đay thay vì lúa thì làm sao họ có thể sống còn cho được trong lúc sự sinh tồn của họ chỉ dựa vào lúa gạo. Sự phẫn uất và tinh thần chống đối đã lên đến cao độ và người dân tỏ ra sẵn sàng dấn thân chiến đấu để giành lại quyền sống.
Chém cha lũ Nhật côn đồ!
Bắt người, cướp của tha hồ thẳng tay
Dân ta trăm đắng ngàn cay
Thóc ăn chẳng có, trồng đay cho người
Tháng ngày dãi nắng dầm sương
Mới được ruộng lúa bên đường xanh tươi
Quân bay độc lắm, Trời ơi!
Độc hơn rắn rết, lợn lòi, hùm tinh
Bắt choa* nhổ lúa đang xanh
Trồng đay thắt cổ họ hàng nhà bay
Không trồng thì phải tù ngay
Trồng thì chẳng biết ăn mày phương mô
Thôi thì thác cũng ra ma
Ruộng choa, choa cứ hai mùa làm ăn.
(*Choa: phương ngữ có nghĩa là “tao” hay “tau”, ngôi thứ nhất số ít)
Lấy chồng mà cậy, mà nhờ,
Hôm qua thằng Nhật bắt bừa đi phu.
Bên mình nheo nhóc con thơ,
Dỗ được chúng nín, trời trưa mất rồi!
Cảnh tình thảm lắm, ai ơi!
Chàng đi khổ chín, thiếp tôi khổ mười.
Ngẫm ra thật đúng như lời:
Nước mà đã mất, thời nhà cũng tan.
Đất này đất tổ đất tiên
Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua
Bây giờ Nhật, Pháp kéo hùa
Chiếm trồng đay, lạc, ức chưa, hỡi Trời!
Thằng Nhật có cái gươm dài
Dân choa chỉ có nắm tay, củ gừng
Trăm nắm tay choa cùng vung tới
Cái gươm dài mi nối được chăng?
Khôn hồn cút khỏi nước Nam
Kẻo choa trổ phép, kêu van cũng hoài.
Ghét và hận thù Tàu, Tây, Nhật, người dân ghét luôn cả những người đàn bà Việt lấy Tàu, lấy Tây, lấy Nhật.
Tham vàng lấy phải thằng Ngô
Đêm nằm hú hí như vồ đập bông.
Thà rằng ăn cá diếc truôi
Còn hơn lấy khách mọc đuôi trên đầu
Cha đời con đĩ nước Nam
Hay ăn mà chả hay làm lấy Tây.
Tôi đi khắp bốn phương trời
Không ai lịch sự bằng người lấy Tây
Ngày ngày dép dép giày giày
Tối về cởi váy cho Tây lìm lìm
Nó lìm vào phổi vào tim
Chắp hai tay lạy chim chim me xừ.
Tiếng đồn Hai Hữu thậm sang
Nón Gò Găng, khăn nhiễu đựng, quần hàng phết chân
Khăn mù-xoa hoa lí lát gừng
Đầu cài kiếng* phượng, chân mang đôi giày
Nhật thường kêu thợ tới may
Về thăm cha viếng mẹ có xe tay đưa đàng
Quần lãnh bông, dây lưng rút hoả hoàng**
Ngồi trên lầu ngó xuống tựa như nàng cánh tiên
Một mai bóng xế trăng nghiêng
Tây về xứ hắn, ôm duyên chờ già
Hết đồ ăn bận vô ra
Còn chi trang điểm phấn thoa lược cài.
(* Cánh chim phượng; ** hoa lan vàng)
Nhưng người bình dân thôn dã ghét nhất là những người — dù những người ấy là vua, quan, hay thứ dân — đã phản bội lại đất nước bằng cách quỳ luỵ, làm thân trâu ngựa cho ngoại bang chỉ vì muốn được an thân, sung sướng vật chất, xa hoa phú quý.
Nhâm Ngọ thì có sao đuôi
Đến năm Qúi Mùi* giặc liền phá ra
Nhà vua thân với Lăng Sa
Để Tây ăn cướp trứng gà của dân.
(* 1883 Pháp đánh Thuận An, vua kí hiệp ước Patenôtre 1884)
Sông Hương nước chảy lờ đờ
Dưới sông có đĩ, trên bờ có vua.
Nhà vua thân với Lang Sa
Để Tây ăn cướp trứng gà của dân
Tiếng đồn Tú Đỉnh coi tân tỉnh sông Con
Nghe vua Đồng Khánh lên non mất đầu
Trời ơi! Trông xuống mà coi
Nước Nam cơ khổ, con Trời hai ông
Hàm Nghi chính thực vua trung
Còn như Đồng Khánh là ông vua xằng
Thằng Tây hắn ở bên Tây
Bởi vua chúa Nguyễn rước thầy đem sang
Cho nhà nước tan hoang
Cho thiếp ngậm đắng, cho chàng ăn cay
Cha đời mấy đứa theo Tây
Mồ ông mả cố, voi giày biết chưa?
Khuyển Ưng hai gã Khải, Hoan*
Theo Tây hại nước, giàu sang riêng mình
Công lênh với nước mới vinh
Công lênh với giặc người khinh đời đời.
(*Hoàng Cao Khải, Lê Hoan)
Phản dân hại nước
Rước voi giày mả tổ
Chém cha những đứa sang giàu
Cậy thần, cậy thế, cúi đầu nịnh Tây.
Cùng chung một giọt máu đào
Nỡ nào hại nước, nỡ nào hại dân
Gáo vàng đem múc giếng Tây
Khôn ngoan cho lắm tớ thầy người ta
Nghèo thì ăn sắn, ăn khoai
Ai ơi! Đừng có theo loài Việt gian.
Về đi, sống với ruộng vườn
Vòng khoai, nương sắn, xanh rờn chè tươi
Tội gì theo giặc, anh ơi!
Ngàn năm bia miệng, người đời cười chê.
Hỏi rằng đi chết cho ai?
Cho nhà, cho nước, cho tình, cho em?
Hay là đi chết vì tiền?
Giữ thuê hầm mỏ, đồn điền cho Tây?
Sông Nha Trang cát vàng, nước lục
Thảnh thơi con cá đục lội dọc, lội ngang
Đã nguyền cùng nhau hai chữ đá vàng
Quý chi tách cà phê đen, li sữa bò trắng
Anh nỡ phụ phàng nước non.
Ai ơi! Chớ dại, chớ lầm
Lương tâm bán rẻ, đi cầm súng Tây
Máu người thân vấy đầy tay
Hại dân, hại nước, tội này ai tha?
Chớ tham đồng bạc con cò
Bỏ cha, bỏ mẹ đi phò Lang Sa
Quy Nhơn có biển có cầu
Có phố chú Chệt, có lầu ông Tây
Thông ngôn, kí lục lắm thầy
Chân thì giày ống, tay thì ba-toong
Vợ thì đánh phấn, thoa son
Nước non còn mất, mất còn không hay.
Chiều tà bóng ngả nương dâu
Vin cành bẻ lá, em sầu duyên tơ
Tiếc công tháng đợi năm chờ
Tưởng chàng có nghĩa, ai ngờ theo Tây
Vùi thân trong đám bùn lầy
Nước nào rửa sạch nhục này, chàng ơi!
Thà rằng uống nước hố bom
Còn hơn theo giặc, lưng khom, chân quỳ
Sông Trà Khúc, ai mà tát cạn
Rừng Trà Bồng, ai đẵn cho hết cây?
Anh mà đi với thằng Tây
Anh đành phải dứt hết dây nghĩa tình.
Yến sào thêm ít hạt sen
Chưng với đường phèn bổ lắm, anh ơi!
Em khuyên anh lời đã cạn lời
Giăm-bông, bíp-tếch là mồi thực dân
Mùi quê hương thơm ngọt vô ngần
Anh ham chi của thừa, của thãi
Mà anh đành bỏ ngãi, bỏ nhân
Để đi làm thân tôi đòi
Cực lòng em lắm, anh ơi!
Nhìn trong tủi thẹn, trông ngoài xấu xa
Dễ vào thì cũng dễ ra
Anh hãy về chung gánh nước nhà cùng em.
Hận thù Tàu, Pháp, Nhật đã thôn tính đất nước, đàn áp và bóc lột dân lành, cướp mất những phương tiện sinh sống của họ, người bình dân thôn dã chỉ mong diệt trừ bọn xâm lược. Do đó, họ rất yêu mến và ca tụng những anh hùng đứng lên tranh đấu giành lại quyền sống cho họ. Đành rằng đã có những vua quan phản bội đất nước, nhưng cũng có vua quan yêu nước như chúng ta đã thấy qua phong trào Cần Vương mà người dân rất yêu mến, quý trọng.
Chiều chiều trước bến Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.
(Trần Cao Vân giả ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu để đợi đón vua Duy Tân đi làm cách mạng)
Ngó vô Linh Đổng mây mờ
Nhớ ông nguyên soái* dựng cờ đánh Tây
Sông Côn khi cạn khi đầy
Khí thiêng đất nước, nơi này vẫn thiêng
(*Mai Xuân Thưởng khởi nghĩa Cần Vương, lập chiến khu chống Pháp ở Linh Đổng, huyện Bình Khê Tây Sơn, Bình Định)
Có chàng Công Tráng họ Đinh
Dựng luỹ Ba Đình* chống đánh giặc Tây
Cơ mưu dũng lược ai tày
Chẳng quản đêm ngày vì nước lo toan
Dù cho vận nước chẳng còn
Danh nghĩa vẹn toàn, muôn thuở không phai
(* Chiến luỹ Ba Đình tại Nga Sơn, Thanh Hoá: phong trào Cần Vương)
Ô Loan* nước lặng như tờ
Thương người chiến sĩ dựng cờ Cần Vương
Trải bao gối đất nằm sương
Một lòng vì nước nêu gương anh hùng
(* Đầm Ô Loan ở Phú Yên, nơi Tú Phương lãnh đạo quân Cần Vương)
Kệ Sơn, Phượng Lĩnh đôi hàng
Đi về mấy độ, ngang tàng vào ra
Ngàn Hồng* hỏi khách đi qua
Nào ai là kẻ xông pha đứng đầu
(* Nơi nghĩa quân thương tiếc ông Thái Vĩnh Chinh, một trong những lãnh tụ của phong trào Cần vương)
Cũng như đối với sự cai trị bóc lột của người Tàu, người bình dân nước Việt thương tiếc và ca tụng các nhân sĩ anh hùng yêu nước đứng lên tranh đấu chống chính sách cai trị đàn áp và bóc lột tàn nhẫn của người Pháp, giành lại độc lập cho đất nước và đã hi sinh vì tổ quốc.
Trên trời có ông sao Tua
Ba làng Trà Lũ* có vua Ba Vành.
(* Trà Trung, Trà Bắc, Trà Đoài: thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định)
Gò Công anh dũng tuyệt vời
Ông Trương* đám lá tối trời đánh Tây
(* Trương Công Định (1820-1864) cho quân ẩn nấp sau những đám lá dừa rậm rạp để chờ đánh Tây)
Vĩnh Long có cặp rồng vàng
Nhất Bùi Hữu Nghĩa, nhì Phan Tuấn Thần
Anh đi súng ở tay ai
Sao không quay lại bắn loài thú chung
Anh xem bao kẻ anh hùng
Kìa ông đội Cấn đội Cung dạo nào
Hô quân ra cứu đồng bào
Súng Tây ông lại bắn vào đầu Tây
Tiếng tăm lừng lẫy đó đây
Sử xanh ghi mãi những ngày vẻ vang
Anh ơi, duyên phận lỡ làng
Xin anh để tiếng phi thường cho em
Ước gì kẻ lạ người quen
Gần xa nhắc đến chồng em anh hùng
Thu đông lệ nhỏ đôi dòng
Anh ơi, em ngỏ tấm lòng cùng anh.
Anh ở chi đây cho thằng cu lít bắt, thằng cò ngăm
Anh đi theo chính nghĩa lâu năm cũng về
Long Thành bao quản nắng mưa
Cửa ô Quan Chưởng* bây giờ là đây.
(*Nơi quan chưởng vệ đã anh dũng hi sinh khi giặc Pháp đánh thành Thăng Long)
Vườn ai trồng cúc, trồng tre
Ở giữa trồng chè, hai bên đào ao
Ấy nhà một đấng anh hào
Họ Phan*, làng Thái, đồng bào kính yêu.
(*Phan Đình Phùng, làng Đông Thái, Hà Tĩnh)
-Tiếng đồn anh hay chữ
Lại đây em hỏi thử
Đôi câu lịch sử Khánh Hoà:
Từ ngày Tây cướp nước ta
Những ông nào đã dựng cờ khởi nghĩa
Anh hãy nói ra cho em tường?
-Nghe lời em hỏi mà thương!
Thương người nghĩa kiệt, tơ vương vấn lòng
Vì thù non sông.
Thề không đội trời chung với giặc
Từ Nam chí Bắc
Thiếu chi trang dạ sắt gan đồng
Ở Khánh Hoà thì có ba ông:
Ông Trần Đường giữ đèo Dốc Thị
Ông Trịnh Phong trấn nơi biển Cù
Ông Nguyễn Khanh lo việc quân nhu
Ba ông một bụng nghìn thu danh truyền.
-Ba ông là bậc anh hiền
Gọi “Khánh Hoà tam kiệt”
Người người đều biết
Đều thương, đều tiếc
Chưa thoả nguyền núi sông!
Tấm thân xem nhẹ như lông hồng
Hỏi anh còn có nhớ
Quảng Phước* tam hùng là ai?
(* Tên cũ của huyện Vạn Ninh)
_Dám đâu quên kẻ anh tài
Rèn gan sắt đá khôn nài bể dâu
Gương phấn dũng làu làu Phạm Chánh
Cùng Phạm Long chung gánh nước non
Cha con trung nghĩa vẹn tròn
Cùng Nguyễn Sum nguyện mất còn có nhau
Bao phen cay đắng hận thù
Tam hùng, tam kiệt nghìn thu trăng rằm.
Nhớ ai, nhớ mãi nhớ hoài
Nhớ người tráng sĩ gươm mài dưới trăng.
Những chính sách cai trị bóc lột tàn độc — như cướp đất, khai thác tài nguyên thiên nhiên, ép buộc người dân lao động cực khổ mà còn phải đóng sưu cao thuế nặng trong lúc người Pháp hưởng thụ cuộc sống xa hoa trước sự bần hàn, nghèo khổ, rách nát của người dân — đã được vạch trần qua ca dao, tục ngữ, phương tiện đấu tranh của người dân thôn dã:
Cam đời mô mà cam không ngọt
Ớt đời mô mà ớt lại không cay?
Sao anh nghe lời phờ phỉnh của Tây
Hắn bảo nộp tôm, nộp cá, hắn tốt chi đây với mình.
Ở bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân
Thấy nước xanh xanh như tàu lá
Ở bên tê Hà Thân ngó qua bên ni Hàn
Thấy phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng bồng Miêu
Dặn tấm lòng ai dỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có em.
Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá
Ngó về Đập Đá, phố xá nghênh ngang
Từ ngày Tây lại sứ sang
Đi xâu nạp thuế, làm đàng không ngơi.
Đời ông cho chí đời cha
Đời nào cực khổ cho qua đời này
Từ ngày mất nước cho Tây
Tiêu hao thì có, sum vầy thì không
Thuế thân phải chịu ba đồng
Công sưu công ích mà không ra gì
Đêm nằm luống những sầu bi
Sưu cao, thuế nặng, lấy chi thanh nhàn
Kẻ thời bỏ xứ đi hoang
Xa chồng, cách vợ, li tan gia đình
Người nào xuất ngũ hành binh
Chết thay cho chúng, dân mình ích chi!
Người nào phản hộ hồi quy
Chịu ba đồng hai cắc cũng y như thường
Ối thôi! Chua xót đoạn trường
Thuế tranh, thuế củi, thảm thương cho đứa nghèo
Người sao sung sướng cười reo
Kẻ sao cực khổ lên đèo, xuống hang
Muốn cho sung sướng thanh nhàn
Chúng ta đoàn kết lên đàng đấu tranh!
Khố đã rách như tua con mực
Áo tả tơi mảnh ngược, mảnh xuôi
Vì đâu cực khổ cuộc đời?
Bởi chưng sưu thuế, vọt roi mấy lần.
Trong nhà “xéc” đèn điện sáng ngời
Tây đầm phè phỡn vui chơi nô đùa
Bên ngoài cũ rũ cù rù
Mấy bà hành khất bù lu kêu đường.
Trước tình trạng bóc lột này, người dân thôn dã không còn thụ động chỉ biết yêu mến và ca tụng những vị anh hùng mà thôi mà còn sẵn sàng đứng lên tranh đấu cho quyền sống của mình. Chính sự uất ức, bất mãn, “tức nước, vỡ bờ” đã khiến họ kêu gào cùng nhau đoàn kết đánh giặc Tây, Nhật. Họ đã thực sự dấn thân tham gia vào cuộc chiến:
Chúng ta đoàn kết lên đàng đấu tranh!
Bao giờ đuổi giặc Nhật, Tây?
Để em được sống những ngày ấm no
Cực thân em đẩy xe bò
Cho phường giặc nước ô tô, nhà lầu
Áo em, áo chiếu mo cau
Áo phường giặc cướp rặt màu tơ len
Ai về nhắn chị cùng em
Có đi giết giặc cho em theo cùng
Ruộng ta ta cấy, ta cày
Không nhường một tấc cho bầy Nhật, Tây
Chúng mày lảng vảng tới đây
Rủ nhau gậy cuốc đuổi ngay khỏi làng.
Đò ai chở khách lấy tiền
Đò tôi chở gạo đi lên kịp ngày
Gạo lên tiền tuyến giết Tây
Nước to, sóng cả, đò đây vẫn chèo.
Bao giờ hết cỏ Tháp Mười
Thì dân ta mới hết người đánh Tây
Nằm trong bụi rậm chờ Tây
Có con chim nhỏ đậu ngay trước nòng
Chim xoè cánh nhỏ rỉa lông
Líu lo chim hót vừa trong, vừa lành
Chim ơi! Giặc đến đã gần
Bay đi kẻo nữa súng gần nơi đây
Mai ngày tạnh gió quang mây
Đậu đâu tuỳ mày, ta chẳng can đâu
Thằng Tây cậy có máy bay
Ta có phép này bịt mắt mày đây
Nguỵ trang ta lấy cành cây
Gài cho thật kín, đố mày biết tao!
Tay cầm bút viết thư cho tiền tuyến
Nơi đây đang xao xuyến hận căm thù
Đồn giặc khuya súng bắn vi vu
Thù trong dạ sục sôi uất hận
Anh ơi! Em viết bức thư này
Sương lam đang phủ dẫy đầy
Xóm trên còn lửa đỏ, lũ giặc Tây đã đi lùng
Xác cha vừa vứt ở ven rừng
Cỏ non chưa kín, nén hương chưa tàn
Mối thù chưa lợt trong tim gan
Thì hôm qua giặc đã đến làng bao vây.
Ở bến Đông Ba ngó qua Diệu Đế
Nghe thấy kinh kệ, cúng lễ giao thừa
Nam mô chi Phật mai xưa
Tây phương tịnh độ, Phật đưa Tây về.
Ai qua phố phủ Đoan Hùng
Hẳn rừng còn nhớ voi gầm sông Lô
Rừng xanh khói lửa mịt mù
Nước sông đỏ máu quân thù chưa phai
Luyện quân, voi luyện cho tài
Lập công voi xé một vài ca nô
Dòng sông nước đục lờ đờ
Bên kia bãi cát: nấm mồ thực dân.
Chúng ta thấy rõ là người dân thôn dã chất phát, nhưng rất ý thức về sự tồn vong của đất nước và họ biểu lộ lòng yêu nước bằng cách tham gia chiến đấu, trước tiên là để giành lại quyền sống cho chính bản thân và sau đó là để bảo tồn mảnh đất mà ông cha để lại và để trả ơn cho các tiền nhân anh hùng. Người bình dân thôn dã xung phong tham gia đấu tranh đã là hiện thực; và, rất quan trọng, họ nhận thức rõ yếu tố thành công then chốt của cuộc đấu tranh giành độc lập là tinh thần đoàn kết.
Ơn dân, nợ nước
Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh
Ru hơi, ru hỡi, ru hời…
Làm trai đứng ở trên đời
Sao cho xứng đáng giống nòi nhà ta
Ghé vai gánh vác sơn hà
Sao cho tỏ mặt mới là trượng phu
Một xin rửa sạch nước nhà
Hai xin đem lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công linh này
Ta về ta tắm ao ta
Dù trong, dù đục, nước nhà cho xong.
Việc nước trước việc nhà
Một bầu nhiệt huyết chan chan
Thân này với nợ giang san còn nhiều.
Tấm gương sáng tỏ ngàn thu
Đảm đương nợ nước đền bù cho xong.
Chồng em vì nước hi sinh
Cánh tay mất nửa, mối tình còn nguyên
Làm trai cho đáng nên trai
Thanh gươm, yên ngựa, dặm dài lướt xông
Vẫy vùng nam, bắc, tây, đông
Lấy thân che chở non sông nước nhà.
Những người ích quốc lợi gia
Tiếng tăm lừng lẫy gần xa nức đời
Ở đời muôn sự của chung
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi
Bầu ơi, thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Trâu một chuồng đừng bạng nhau
Bò một chuồng đừng nhìn gằm nhau
Một người một điều; dỡ lều mà đi
Góp gió thành bão; góp cây thành rừng
Góp gió thành bão; mưa lâu nên lụt
Góp gỗ nên rừng
Gỗ nặng cùng khiêng
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Một hòn đắp chẳng nên non
Ba hòn chụm lại nên cồn Thái Sơn
Một chạch không đầy đầm
Một con én không làm nổi mùa xuân
Trăm đóm thành mặt trời; trăm dơi thành ác điểu
Đoàn kết thì sống; chia rẽ thì chết.
Tóm lại, qua hai bài về lòng yêu nước, chúng ta thấy được người bình dân thôn dã Việt Nam đã đưa ra một định nghĩa rất rõ ràng và cụ thể về ý nghĩa của cụm từ “yêu nước” hay “ái quốc”. Định nghĩa này có hai khía cạnh: tích cực và tiêu cực. Khía cạnh tích cực cho thấy lòng yêu nước được thể hiện vì lí do phong cảnh đất nước quá tuyệt đẹp nên hữu tình, vì những đặc sản thực phẩm và cỏ cây vùng miền mà người dân quen thuộc và yêu mến, vì dấu ấn của những kỉ niệm thân thương của buổi thiếu thời, vì thổ ngơi thích hợp với mùa màng và cuộc sống, vì những truyền thống và di tích lịch sử văn hoá của giống nòi, và đặc biệt hơn cả là vì đất đai, nguồn mạch sống chính yếu của người dân (xem bài trước). Khía cạnh tiêu cực là hận thù và chiến tranh. Mặc dù hận thù và chiến tranh mang tính tiêu cực và không ai muốn hận thù và chiến tranh, nhưng hận thù và chiến tranh là cảm xúc và hoạt động thiết yếu của lòng yêu nước khi những đối tượng yêu đương (phong cảnh, đặc sản, kỉ niệm, thổ ngơi, truyền thống văn hoá, nhà cửa, đất đai, cha mẹ, vợ con) bị cưỡng chiếm và lạm dụng. Trước sự đàn áp và bóc lột không khoan nhượng của kẻ cướp đi quyền sống của mình, người dân không thể không đấu tranh. Và không có được lòng yêu đất nước cao độ, họ sẽ không có đủ can đảm sẵn sàng hi sinh tính mạng tham gia chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược.
Người Tàu đô hộ tổ quốc Việt Nam rất hà khắc suốt cả ngàn năm bằng cách sát nhập đất đai, áp dụng chính sách đồng hoá, đàn áp vua quan Việt, bắt ép triều cống phẩm vật quý như ngọc minh cơ, sừng tê, ngà voi, đồi mồi; thiết lập tô thuế, khai thác và tước đoạt tài nguyên thiên nhiên và đất đai canh tác của dân (Xem thêm https://loigiaihay.com/ly-thuyet-chinh-sach-cai-tri-cua-cac-trieu-dai-phong-kien-phuong-bac-va-su-chuyen-bien-ve-kinh-te-xa-hoi-van-hoa-cua-viet-nam-thoi-phong-kien-lich-su-6-canh-dieu-a89986.html#ixzz81tOsgFml).
Người Pháp cũng tước đoạt tài nguyên thiên nhiên như khai thác vàng, lập đồn điền cao su, khai thác than đá, thu mua lúa gạo, thiết lập sưu cao, thuế nặng. Người Nhật thì ép buộc nông dân không được trồng các loại nông sản khác ngoài cây đay để họ đem về Nhật dùng vào kỉ nghệ dệt vải và làm bao tải chứa cát để dùng vào việc phòng thủ chống lại các lực lượng Đồng minh, làm cho hơn 2 triệu người Việt chết đói vì thiếu gạo.
Đất này đất tổ đất tiên
Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua
Bây giờ Nhật, Pháp kéo hùa
Chiếm trồng đay, lạc, ức chưa, hỡi Trời!
Cái thằng Tây nó ác quá
Nó đánh, nó đá, nó cưỡng hiếp, chửi mắng lôi thôi
Do đó người dân đã tỏ lòng biết ơn, ca tụng, và suy tôn những vị anh hùng đã vì nước, đứng lên chống lại ngoại bang xâm lược, cướp đi quyền sống của họ. Không những họ vinh danh các anh hùng cứu nước mà họ còn hô hào đồng bào xung phong tham gia chiến đấu và chính họ cũng đã dấn thân vào những cuộc đấu tranh cách mạng giành lại quyền sống. Tuy nhiên, một điểm quan trọng cần lưu ý nhất là nguyên nhân cốt lõi của những cuộc cách mạng này là sự đàn áp oan trái (đánh đập, bắt bớ, tra tấn, tù, đày v.v…mà không dựa trên nguyên tắc pháp lí công bằng) và sự bóc lột khắc nghiệt: sưu cao, thuế nặng, khai thác tài nguyên thiên nhiên, và lạm chiếm đất đai, nguồn mạch sống của người dân. Để chứng minh quan điểm này, lịch sử đã ghi lại là tất cả các nhà cai trị bóc lột nhân dân tàn nhẫn, độc ác đều bị lật đổ ngoại trừ Thái thú Sĩ Nhiếp (187-226) gốc người nước Lỗ (Tàu) cai trị nước Việt bằng sự nhân đức, độ lượng, không đàn áp, bóc lột người dân nên không những đã không bị chống đối, lật đổ mà còn được giới trí thức Việt ca ngợi là học tổ của đất nước và nhân dân yêu mến, lập đền thờ kính bái ông, nay vẫn còn dấu tích tại Luy Lâu. Đàn áp và bóc lột là nguyên nhân chính đưa đến hậu quả tất yếu là đấu tranh cách mạng lật đổ kẻ cai trị tàn ác và yếu tố quyết định thành công của cách mạng là sự đoàn kết.
Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái, Ph.D.
Ngày 14 Tháng 5 Năm 2023
Ngày của Mẹ
North Wales, Pennsylvania, USA
0 Comments